Sunday, November 10, 2013

Từ Nguyễn Thanh Chấn đến Hồ Duy Hải




(Nhân)
Vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang)


(Trong khi)
Ông Nguyễn Thanh Chấn mô tả việc bị ép cung:

“Mày có khai không, tao cho mày chết”, ông Chấn thuật lại lời một điều tra viên. Trong thời gian tạm giam hơn một tháng, ông Chấn bị bắt phải tập các động tác cầm dao, đâm vào hình nhân giả.

Ngồi trong tù 10 năm, ông Nguyễn Thanh Chấn chậm chạp đi nhiều so với tuổi của mình. Ông bị chứng đau đầu kinh niên, không nói được nhiều. Một câu hỏi dài, nhiều nội dung cũng có thể làm ông bị bối rối, bóp trán. Chỉ cần ai đó nhắc đến từ “oan” cũng có thể khiến ông bật khóc.
Phải mất nhiều thời gian, với sự động viên của Luật sư Nguyễn Đức Biền, người đã bào chữa cho ông Nguyễn Thanh Chấn và ông Thân Ngọc Hoạt, người anh em “đồng hao” đã sát cánh bên vợ ông đi tìm công lý, thì người tù vừa được trả tự do mới bình tĩnh kể về những cơn ác mộng của mình.

Trong 10 năm, có nhiều việc ông đã quên nhưng riêng việc bị ép cung thì ông vẫn nhớ. Trực tiếp là điều tra viên Nguyễn H.T. Điều tra viên Trần N.L. tay cầm dao, lăm lăm đe doạ. “Điều tra viên L. hỏi Mày có khai không, tao cho mày chết. Một điều tra viên khác đánh tôi, bắt tôi tập đi tập lại các động tác từ trong trại giam để đi thực nghiệm tại hiện trường”, ông Chấn nói.
Trong đơn kêu oan đề gửi Thanh tra Bộ Công an, ông Chấn nêu, ngày 30/8/2003, ông nhận được giấy mời lần 1 đến Công an huyện Việt Yên để làm việc. Cụ thể, cơ quan điều tra lấy dấu chân và dấu vân tay, đồng thời hỏi ông có biết gì về cái chết của cô Hoan, ông trả lời không biết gì cả. Đến 20/9/2003, ông nhận được giấy triệu tập lần 2 và vẫn trả lời không biết gì về cái chết của cô Hoan. Sáng hôm sau, ông đến theo hẹn thì cán bộ Nguyễn H.T. lại lấy dấu chân, dấu tay nhiều lần rồi tra hỏi, đánh ông rất đau. Từ đó, khoảng 6 cán bộ thay nhau canh ông suốt đêm này sang đêm khác không cho về và không cho ngủ, dọa nạt, ép buộc ông.
"Cán bộ Trần N.L bắt tôi vẽ dao, tôi không vẽ loại dao gì lại bảo cho mày cái búa vào đầu cho mày chết bây giờ. Cán bộ H.T trên tay lúc nào cũng cầm dao hăm dọa, ép buộc tôi phải nhận. Tiếp đó, cán bộ Ngô Đ.D đọc và bắt tôi viết đơn tự thú ngày 28/9/2003. Thế là đến chiều chuyển tôi về trại Kế - Bắc Giang", đơn viết.
Thời gian tạm giam ở trại Kế, có đêm ông Chấn bị chuyển 3-4 buồng. "Có lần vừa vào buồng của phạm nhân Phạm Duy Hồng, tôi bị dùng dép đánh vào 2 mang tai sau đó bắt hát. Bị bắt từ ngày 20 đến ngày 28 hầu như tôi không được ngủ, đầu óc quay cuồng, lâng lâng", ông Chấn lấy tay ôm mặt.
"Cũng trong trại Kế, tôi phải tập đâm bên nọ, đâm bên kia. Họ cho một tù nhân giả làm cô Hoan. Cán bộ đưa cho cái thìa, cái lược để làm hung khí. Tập nhiều lần cho thành thạo, làm đi làm lại để đúng ý họ. Sau đó, họ mượn nhà dân, bắt tôi diễn lại và quay phim thực nghiệm hiện trường", ông kể tiếp.

Nhớ lại thời khắc ở tòa, ông Thân Ngọc Hoạt cho biết, "Chấn chỉ kiểm sát viên Đặng T.V nói ông kia mang hồ sơ sang bắt tôi ký nhưng tôi không ký, ông ấy còn định đánh tôi. Chấn kể ra việc bị ép cung, Hội đồng xét xử yêu cầu có bằng chứng, nhưng một phạm nhân lấy đâu ra bằng chứng", ông Hoạt bức xúc.
Người anh em đồng hao với ông Chấn làm đơn kiến nghị, tại sao không có vân tay của Chấn mà kết tội. Nếu đúng bản tự thú do Chấn viết tại sao gần một tháng sau mới dựng hiện trường. "Ra tòa mới biết là do Chấn bị bắt tập như tập kịch, dựng hiện trường cho thành thạo thì mới thực nghiệm", ông Hoạt gay gắt.
Luật sư Biền cũng cho hay: "Tại tòa tôi hỏi Anh không thực hiện hành vi tội phạm sao lại thực hiện thành thục như trong mô tả của cáo trạng?. Chấn trả lời Là do điều tra viên dạy thực nghiệm nhiều lần trong tù".
Sau 10 năm, các điều tra viên trong vụ án này đã chuyển nhiều vị trí công tác. Theo ông Hoạt và một số người dân địa phương, điều tra viên Nguyễn H.T. đã tử vong trong một tai nạn giao thông trên đường đi làm về. Một số điều tra viên được nhắc tên trong đơn kêu oan hiện đảm nhiệm một số cương vị trong ngành công an ở tỉnh Bắc Giang. 
Chủ tọa phiên xét xử sơ thẩm ông Nguyễn Thanh Chấn năm 2004 là ông Nguyễn Minh Năng cũng bị tai nạn giao thông năm 2010, đang phải điều trị do bị ảnh hưởng đến não.
Hội đồng thẩm phán của TAND Tối cao đang xem xét để định đoạt kết quả cuối cùng của vụ án.


(Nhưng)
tất cả 6 điều tra viên đều phủ nhận đánh đập, ép cung ông Chấn:
10/11/2013 17:50
(TNO) Ngày 10.11, thông tin từ Tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang, cơ quan này đã có cuộc làm việc với lãnh đạo Công an tỉnh Bắc Giang để nghe báo cáo về việc 6 điều tra viên được triệu tập viết giải trình về việc bị ông Nguyễn Thanh Chấn (52 tuổi, ở thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) tố ép cung, đánh đập.
Trong bản giải trình, cả 6 điều tra viên trực tiếp điều tra, xét hỏi vụ án của ông Chấn đều khẳng định không có việc ép cung hay đánh đập ông Chấn.
Trước đó, ngày 6.11, đại tá Dương Văn Chức, Chánh văn phòng Công an tỉnh Bắc Giang, cho biết Công an tỉnh Bắc Giang đã triệu tập các điều tra viên có liên quan tới vụ án của ông Nguyễn Thanh Chấn và yêu cầu tường trình.

Danh sách 6 điều tra viên được triệu tập để giải trình về lời tố cáo "ép cung, đánh đập" của ông Nguyễn Thanh Chấn: 
1. Ông Thái Xuân Dũng khi đó là Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Phó phòng Cảnh sát điều tra (PC16). Ông Dũng là người ký kết luận điều tra vụ án để chuyển Viện KSND tỉnh Bắc Giang truy tố ông Nguyễn Thanh Chấn. Ông Thái Xuân Dũng hiện đang mang quân hàm đại tá, giữ chức Chánh thanh tra Công an tỉnh Bắc Giang.
2. Ông Lê Văn Dũng khi đó là Phó phòng Cảnh sát điều tra, trực tiếp chỉ huy điều tra vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn. Nay ông Dũng giữ chức Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, cấp hàm đại tá.
3. Ông Ngô Đình Dung là điều tra viên chính của vụ án Nguyễn Thanh Chấn. Nay ông Dung là Phó trưởng Công an huyện Lục Nam (Công an tỉnh Bắc Giang) với cấp hàm thượng tá.
4. Ông Trần Nhật Luật khi đó là điều tra viên, nay là Phó trưởng Công an huyện Việt Yên (Công an tỉnh Bắc Giang).
5. Ông Đào Văn Biên khi đó cũng là điều tra viên. Hiện nay ông Biên giữ chức Phó trưởng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (Công an tỉnh Bắc Giang).
6. Ông Nguyễn Trung Thành là điều tra viên trực tiếp hỏi cung ông Nguyễn Thanh Chấn. Hiện nay ông Thanh là Phó trưởng phòng Công tác Đảng, công tác quần chúng thuộc Công an tỉnh Bắc Giang.
ooo0ooo


Cùng nhau xem lại 
Vụ án Hồ Duy Hải (Bưu điện Cầu Voi, Long An)





Nguyên văn bài báo:
Ý kiến của một sinh viên báo chí về Vụ án Cầu Voi

Sau khi báo Pháp luật TP. HCM đăng bài “Long An: Giết hai nhân viên Bưu điện Cầu Voi, lãnh án tử” ngày 02-12-2008, bạn Nguyễn Anh Minh - một sinh viên báo chí (có tham dự phiên xử Sơ Thẩm ngày 28-11-2008) đã lên tiếng bày tỏ những bức xúc của mình về sự “khác thường” trong suốt quá trình xét xử Hồ Duy Hải.
Sau đây là toàn bộ nội dung:
Tôi là một người dân ở thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay đang là sinh viên năm 4 theo học ngành Báo. Vào một dịp tình cờ lên mạng lướt web, tôi đọc thấy tin về vụ sát hại 2 nữ nhân viên bưu điện ở Bưu điện Cầu Voi (Long An). Lúc ấy tôi thật sự kinh hãi và phẫn nộ về hành vi thảm sát dã man cùng lúc 2 nhân mạng. Cũng từ lúc ấy, mọi diễn biến cũng như thông tin về vụ việc trên được tôi đặc biệt chú ý. Không biết vì lý do gì, hay chỉ đơn giản là tính cách tò mò của một sinh viên nhà báo nghiệp dư, đã thúc đẩy tôi quan tâm đến vậy.
Tôi cũng có suy nghĩ như các anh Công an của cơ quan điều tra (CQĐT), có thể thủ phạm là một trong những người quen biết của một trong hai nạn nhân. Qua một số phương pháp sàn lọc, điều tra thì CQĐT đã bắt tạm giam khẩn cấp đối với Hồ Duy Hải (sinh ngày 6-7-1985, ngụ ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An). Đến lúc này tôi thấy mừng vì suy nghĩ của mình đã đúng. Bằng một số biện pháp nghiệp vụ, CQĐT đã buộc bị cáo khai nhận về hành vi của mình.
Đến ngày 28-11-2008, Tòa án Long An quyết định đem vụ án Hồ Duy Hải ra xét xử. Tôi không thể bỏ qua cơ hội có thể chứng kiến phiên tòa xét xử này.
Khi Viện Kiểm Sát đọc bản cáo trạng về hành vi giết người của hung thủ, thì tôi mới biết “chính xác” diễn biến của vụ việc, nhưng tôi không bất ngờ vì cũng gần giống như lúc trước đây tôi nghe những lời đồn của quần chúng quanh khu vực xảy ra vụ án. Điều làm tôi bất ngờ và ngạc nhiên nhất chính là thái độ của Hồ Duy Hải lúc này, một hung thủ giết người khi đứng trước vành móng ngựa lại có thể “dửng dưng” đến thế. Không dừng lại ở đó, khi khai nhận về hành vi của mình, có lúc bị cáo nói ấp úng, không nói được diễn biến của vụ án làm tôi có cảm giác lạ. Những ai có mặt tại phiên tòa lúc này, có rất nhiều người có cảm giác giống như tôi.
Rồi đến khi bị cáo kêu oan và nói: “chỉ khai nhận tội giết người chứ không thực hiện hành vi giết người” và chỉ khai do nghe được lời đồn từ bên ngoài; lúc trước tòa chỉ khai theo bản cáo trạng, bản cáo trạng khai sao thì khai lại như vậy. Tôi nghĩ điều này cũng hợp lý vì mọi người lúc này hầu như ai cũng đều biết gần hết vụ việc xảy ra. Đến lúc này tất cả những người chứng kiến phiên xử đều ồ lên, một số cho rằng bị cáo vô tội, một số lại tức giận về hành vi “phản cung” của bị cáo.
Khi luật sư Đạt bào chữa cho bị cáo, tất cả những người tham dự phiên tòa gần như trầm lặng để nghe phần trình bày của ông. Luật sư Đạt đã đưa ra đến 41 điều và chi tiết sai phạm trong quá trình tố tụng và điều tra xét hỏi của CQĐT. (Ở đây tôi không nói về việc bị cáo có phải là hung thủ hay không).
Lúc này tôi gần như không thể tin được, một vụ án nghiêm trọng đến thế mà có thể tiến hành điều tra sơ sài như vậy. Không có vật chứng (con dao và tấm thớt gây án nguyên nhân dẫn đến tử vong của 2 nạn nhân, mẫu máu và tóc lại để tới 5 tháng sau đó mới xét nghiệm), cũng không có nhân chứng chứng minh bị cáo có mặt tại hiện trường trong thời gian này, đừng nói đến việc người ngồi trong bưu điện lúc đó có phải là bị cáo hay không và có cho đó là bị cáo thì có chắc là bị cáo giết hay không? Luật sư Đạt cho đây là “suy diễn” của CQĐT dựa vào hiện trường và “lời khai” của bị cáo.Về phần trả lời những “thắc mắc” của CQĐT cho luật sư Đạt, CQĐT chỉ đọc lại bản cáo trạng một lần nữa mà không giải đáp được một chi tiết nào trong 41 chi tiết sai phạm và những điều không hợp lý mà luật sư Đạt đã đưa ra.
Tôi nghĩ muốn buộc tội trong trường hợp này cần nhất thiết phải có nhân chứng và quan trọng nhất phải là vật chứng gây án. CQĐT không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào khác có thể buộc tội bị cáo ngoài lời khai nhận của bị cáo và cho là hợp với tình tiết xảy ra vụ án (được luật sư Đạt cho là hoàn toàn suy diễn chứ không có bằng chứng chứng minh). Tôi bỗng giật cả mình, nếu dựa vào 2 điều này mà kết tội giết người thì chắc tôi không thể ngồi ở đây mà nghe xét xử.
Kết thúc phiên xử buổi sáng, tôi đoán là bị cáo sẽ được phóng thích và quản thúc tại địa phương để tiến hành tiếp tục điều tra vì không có bằng chứng buộc tội bị cáo, nhiều người dân cũng có cùng nhận định như tôi.
Đến phiên xử buổi chiều tôi lại tiếp tục chứng kiến một bất ngờ khác là luật sư Quyết (luật sư chỉ định) không bào chữa cho bị cáo mà lại “xin nhận tội” và “xin được hưởng” án chung thân giùm bị cáo (điều này làm cho luật sư Đạt hoàn toàn sửng sốt).
Lần đầu tiên trong đời tôi có thể chứng kiến một việc lạ lùng đến vậy, không biết thân chủ mình thật sự có tội hay không mà nhận tội giùm lại không bào chữa cho thân chủ. Và có một điều làm cho tôi cảm giác như ở đất Long An dường như không xài luật pháp Việt Nam mà xài “luật rừng” khi tôi vô tình nghe được một luật sư nói với luật sư kia: “ông muốn nói gì thì nói, chứ tôi không thể nói gì được vì thấy ngại với anh em” và “phủ bên phủ huyện bên huyện”.
Lúc này tôi cảm giác như họ muốn kết thúc nhanh vụ án và đưa vụ án ra khỏi tầm tay của họ vì một lý do nào đó. Khi luật sư Đạt nói đến khi nào những chi tiết này chưa được làm sáng tỏ thì phải điều tra lại chứ không phải vụ án được quần chúng quan tâm nên kết thúc sớm; làm như vậy thì chính CQĐT mới là người xem thường mạng sống của nhân dân chứ không phải là ai khác, thì được đáp lại vỏn vẹn 1 câu là “không quan trọng”.
Rồi đến ngày tuyên án, tôi có thể đoán được phán quyết của Tòa, 1 là phóng thích, 2 là tử hình. Trong suốt 2 ngày trước khi tuyên án tôi luôn suy nghĩ, nhưng tôi cho rằng phương án thứ 2 chắc chắn sẽ xảy ra, vì nếu đã có sự không minh bạch trong điều tra (chỉnh sửa bản cáo trạng, vội vàng đem vụ án ra khởi tố khi không đủ bằng chứng,…), không minh bạch và công bằng trong xét xử (hành vi của 1 số người không tiện nói ra) thì không có lý do gì họ phải làm điều mà họ “không muốn” và “không được phép”. Rồi suy đoán của tôi cũng thành sự thật. Bản án tuyên tử hình của chủ tọa phiên tòa qua cái nhìn của tôi thì rất sơ sài, bản án được làm giống như quyển tập nháp của học sinh, trình tự tuyên án không đúng theo quy định của pháp luật, có nhiều chi tiết trong bản tuyên án không đúng với thực tế, không biết là lỗi sai do khâu “kỹ thuật” hay do chủ tọa “run quá” nên đọc sai, nhưng qua đó cho thấy những kết luận cũng như nhận xét của tôi về phiên tòa này là không sai.
Khi xem xong buổi tuyên án, tôi luôn có cảm giác hổ thẹn không hiểu vì lý do gì.
Trong trường chúng tôi được dạy là nghề báo là phải sống thật, viết thật, viết đúng; vậy mà những người đại diện cho pháp luật lại “như vậy”. Tôi nói “như vậy” vì tôi không biết dùng từ nào để diễn tả nữa. Đã có lúc tôi nghĩ mình không cần quan tâm làm gì và cũng không có ý định viết bài này; nhưng nghĩ lại những điều mình đã học ở trường và lương tâm của nhà báo nghiệp dư của tôi nên tôi đã viết.
Kết thúc phiên tòa sơ thẩm này, chỉ cần một người có một ít tri thức cơ bản về pháp luật cũng đủ hiểu là có quá nhiều điểm khả nghi và không minh bạch trong vụ án này mà được CQĐT cho là “KHÔNG QUAN TRỌNG”. Tôi không biết còn gì là quan trọng với CQĐT (người đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trên lý thuyết) nữa đây, hay là bắt đại một ai đó được CQĐT cho là nổi cộm và nhanh chóng kết thúc vụ án để “HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ”.

Tôi viết bài này không phải là để kiếm tiền nhuận bút hay viết để giải trí; vì thứ nhất: tôi biết đất LONG AN nổi tiếng là XỬ OAN, thứ hai: có thể bị cáo không chịu được “các biện pháp nghiệp vụ” của CQĐT (tôi nói vậy chắc mọi người đã hiểu). Đó là những trường hợp phạt tù hay chung thân, còn ở đây là tử hình, vì thế việc sai sót cũng như thiếu sót để xảy ra án oan là không được phép xảy ra khi liên quan đến sinh mạng của một con người.
Trong văn bản pháp luật Việt Nam đã ghi rõ, sinh mạng của con người không ai được phép tùy tiện tước đi; tôi nói nếu vì xử oan mà tước đi sinh mạng của một công dân thì liệu CQĐT và tòa án có đền lại được không? Điều này thể hiện mức độ quan trọng và tính nghiêm minh của pháp luật, không để cho bất kỳ một ai tác động đến tính nghiêm minh, sự minh bạch và tính công bằng trong quá trình điều tra xét xử.
(Đây chỉ là bài viết cảm nhận của tôi trong suốt quá trình xảy ra vụ án cho đến giờ. Đây không chỉ là ý kiến riêng của tôi mà còn là ý kiến khách quan tổng hợp thu thập được của một bộ quần chúng nhân dân. Tôi không có ý công kích bất kỳ ai nhưng qua đây tôi chỉ mong các CQĐT và tòa án- những người nắm trong tay sinh mạng của nhân dân luôn thận trọng và có ý thức trách nhiệm cao trong công việc của mình.)
--------------------------
Bài viết trên được lấy từ nguồn báo Pháp luật TP. HCM theo địa chỉ dưới đây:
http://phapluattp.vn/235703p1015c1074/long-an-giet-hai-nhan-vien-buu-dien-cau-voi-lanh-an-tu.htm
(Hiện bài này đã bị gở xuống.)
*******
Những bài có liên quan đến vụ án oan này:


Gia đình tử tội Hồ Duy Hải gửi đơn kêu oan

23/04/2011 - 14:27
(Haimat.vn) – Đầu năm 2008, một vụ giết người man rợ đã diễn ra tại Bưu điện Cầu Voi (huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An). Hai nữ nhân viên của bưu điện đã bị giết hại bằng những nhát dao cắt sâu vào cuống họng. Ngay sau khi vụ án xảy ra, Cơ quan điều tra công an tỉnh Long An đã lấy lời khai của nhiều người, nhưng không có quyết định khởi tố nào được đưa ra. Gần 3 tháng sau, một thanh niên tên Hồ Duy Hải bị bắt giam và ngay sau đó báo chí đưa tin đây chính là hung thủ của vụ giết người này.
Qua hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm), Tòa đã tuyên án tử hình về tội giết người đối với Hải. Tuy nhiên, tại phiên tòa Hải đã kêu oan, nại ra rằng lời khai nhận tội của mình là nghe qua lời kể lại của một công an viên. Một số tờ báo cũng đưa tin về kết quả xét xử vụ án này, kèm với ý kiến của một số chuyên gia, bày tỏ sự băn khoăn khi có những sai sót trong quá trình điều tra.
Sau đó, Văn phòng Chủ tịch nước đã có hai văn bản, yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao xem xét đơn và giải quyết ý kiến thắc mắc cho gia đình Hồ Duy Hải, báo cáo kết quả về Văn phòng Chủ tịch nước. Tuy nhiên đến nay đã hơn một năm trôi qua, các cơ quan chức năng vẫn chưa có ý kiến trả lời chính thức.
Trong khi đó, theo gia đình phạm nhân Hồ Duy Hải, trong trại giam Hải vẫn tiếp tục kêu oan, bày tỏ nguyện vọng được minh oan – mỗi khi gia đình vào thăm nuôi.
Mới đây nhất, ngày 22-4-2011, gia đình của tử tù này đã có Đơn khiếu nại và kêu oan cho Hồ Duy Hải, gửi tới các cơ quan chức năng.
Xét rằng những nội dung trong Đơn này không có gì là bí mật, toàn bộ các nội dung, tình tiết liên quan đến vụ án đều đã được các cơ quan tiến hành tố tụng công bố tại các phiên tòa xét xử công khai. Mặt khác, việc bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội là hết sức quan trọng, không thể để sai sót, nhất là khi liên quan đến tính mạng con người. Do vậy, Haimat.vn quyết định đăng lại toàn văn lá đơn của gia đình Hồ Duy Hải, để mọi người có thêm một góc nhìn về vụ án này – hoàn toàn trên cơ sở khoa học pháp lý thuần túy. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cắt bỏ một vài bức ảnh đính kèm trong Đơn, vì xét thấy không cần thiết và phản cảm. Việc đăng lá đơn này cũng được sự đồng ý của gia đình Hồ Duy Hải.
( Lưu ý : Đơn rất dài, tình tiết phức tạp !)
 
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Long An, ngày 23 tháng 4 năm 2011
ĐƠN KHIẾU NẠI & KÊU OAN
(V/v: Con tôi bị kết án tử hình oan về tội giết người)
Kính gửi :              VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
                              CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
                              VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
Đồng kính gửi :    VĂN PHÒNG CHỦ TỊCH NƯỚC
                              ỦY BAN TƯ PHÁP QUỐC HỘI
                              ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH LONG AN

Chúng tôi là: NGUYỄN THỊ LOAN, sinh 1963 và NGUYỄN THỊ RƯỠI, sinh 1957.
Địa chỉ : ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
Là mẹ và dì ruột của phạm nhân Hồ Duy Hải, người đã bị kết án tử hình về tội giết người và đang có lời kêu oan trong suốt quá trình xét xử vụ án tới nay.
Nay gia đình chúng tôi có đơn này, khiếu nại việc điều tra, truy tố và xét xử con chúng tôi có dấu hiệu vi phạm các qui định của pháp luật tố tụng hình sự, có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án, ép cung và đã làm oan cho con chúng tôi. Qua đó, xin được kêu oan cho con chúng tôi và kính đề nghị được xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm.
(Lá Đơn này được viết trong bối cảnh Hồ Duy Hải đang kêu oan trong trại giam, Văn phòng Chủ tịch nước có 2 công văn ( số 723/VPCTN-PL ngày 1-7-2009 và số 98/VPCTN-PL ngày 17-2-2011) yêu cầu VKSNDTC và TANDTC “xem xét, giải quyết theo thẩm quyền, trả lời đương sự và báo cáo kết quả” - tới nay chưa có phản hồi. Với sự giúp đỡ về pháp lý của luật sư Trần Hồng Phong, Công ty luật hợp danh Ecolaw – Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh).
Cụ thể như sau:
Tóm tắt Cáo Trạng:
Để dễ theo dõi những nội dung trình bày trong đơn này, chúng tôi xin được nêu lại nội dung Cáo Trạng của VKSND tỉnh Long An (giữ nguyên câu, chữ - chỉ bỏ bớt những đoạn không liên quan).
“Khoảng 19h ngày 13-1-2008, Hồ Duy Hải đi xe mô tô Wave BS 62F4-3040 đến tiệm cầm đồ cầm điện thoại di động Nokia N73 lấy 1,5 triệu đồng. Khi Hải đang ở tiệm cầm đồ thì Võ Lộc Đang (bạn Hải) điện vào máy gặp Hải, lúc đó là 19h 13 phút 39 giây. Hải lấy sim số 0909015712 ra cất, chỉ cầm máy điện thoại. Sau đó Hải về nhà, đổi xe Dream màu nho, số 62F6-0842. Khi đi Hải mặc quần vải đen, áo thun màu xanh, bên ngoài mặc áo gió màu trắng, đội mũ bảo hiểm và đi dép lào màu trắng.
Hải chạy xe đến quán cà phê “7 Thanh” gặp và chở Đang đến quán cà phê “Hai Thượng”, đưa 1,35 triệu đồng cho Đang. Hải tiếp tục chạy xe đến Bưu điện Cầu Voi một mình lúc khoảng 19h30. Hải đậu xe phía trong bên phải cổng rào nhìn từ ngoài Quốc lộ 1A vào. Hải cởi áo gió ra, cuộn lại bỏ trên baga giữa xe và úp nón bảo hiểm lên trên. Lúc này bên trong bưu cục có hai nhân viên là Nguyễn Thị Anh Hồng và Nguyễn Thị Thu Vân.
Sau đó Hải đi vào bên trong ngồi ở ghế salon, mặt quay ra trước quầy giao dịch, nói chuyện với Hồng. Sau khoảng 10 phút, Hải mượn chiếc điện thoại Nokia 1100 của Bưu điện bấm xem các chức năng của máy rồi bỏ lên bàn.
Đến khoảng 20h30 bưu điện nghỉ, Hải đưa tiền và kêu Vân đi mua trái cây.
Khi Vân đi, Hải nảy sinh ý định quan hệ giao cấu với Hồng. Hải nắm tay kéo Hồng vào trong buồng, đẩy nằm ngửa xuống bộ đi văng. Hồng phản ứng dùng chân đạp vào bụng Hải, Hải buông Hồng ra. Hồng đi ra ngoài hướng xuống nhà phía sau cầu thang. Hải đuổi theo phía sau dùng tay nắm kéo tay Hồng, xô đẩy vào góc tường gần chân cầu thang. Hồng kêu la á á…rất lớn. Sợ bị phát hiện, Hải dùng tay bóp vào cổ và xô đẩy Hồng té ngã ngửa xuống sàn. Hải thấy cái thớt gỗ tròn ở cạnh đó liền cầm lấy, (..., cắt bỏ vì nội dung mô tả hành động bạo lực )
Thấy Hồng nằm im biết Hồng đã chết, Hải đi ra ngoài thấy phòng vệ sinh mở đèn chiếu sáng bên trong mới đi vào rửa dao và tay cho sạch hết máu.
Hải dắt dao vào lưng quần, đi vào chân cầu thang đứng nhìn ra phía trước thấy Vân đi mua trái cây từ phía ngoài đi vào. Hải núp vào chân cầu thang, quan sát thấy Vân kéo cửa sắt phía trước xuống (đóng cửa) rồi đi vào bỏ bịch trái cây lên bàn salon.
Hải thấy chiếc ghế inox ở cạnh đó mới lấy, hai tay cầm chân ghế thủ sẵn. Khi Vân đi xuống nhìn thấy xác Hồng quay bỏ chạy lên phía trước. Hải đuổi theo đưa ghế lên trên cao và đập thật mạnh xuống đầu Vân làm Vân té ngã xuống nền gạch nằm bất tỉnh.
Hải đi ra phía sau và quăng bỏ chiếc ghế xuống nền gạch gần xác chết của Hồng, rồi quay trở lên 2 tay sốc vào 2 nách của Vân kéo lê xuống phía sau khu vực cầu thang, đặt đầu Vân lên trên bụng của Hồng. Hải lấy dao ra, (..., cắt bỏ vì nội dung mô tả hành động bạo lực dã man). Hải biết Vân chết mới đi ra nhà vệ sinh rửa tay và con dao gây án cho thật sạch.
Xong đi vào bên trong đối diện chân cầu thang bỏ dao vào kẹt tấm bảng lớn để cặp vách tường gần chân cầu thang. Xong, Hải đi lên quầy giao dịch lấy tiền, sim card điện thoại, máy di dộng hiệu Nokia 1.100 bỏ vào túi quần tây.
Hải đi xuống khu vực Vân, Hồng nằm, gỡ lấy sợi dây chuyền bằng vàng của Vân nhưng không có mặt dây chuyền, 1 chiếc vòng đeo tay bằng vàng và 1 chiếc nhẫn bằng vàng. Gỡ lấy của Hồng 1 đôi bông bằng vàng, 1 sợi dây chuyền bằng vàng có mặt bông hoa, 1 lắc đeo tay có trái châu bằng vàng, 2 nhẫn kiểu bằng vàng. Hải bỏ vào túi quần đùi, ra cửa sắt phía sau đóng cửa lại.
Hải leo qua cửa rào ngăn giữa sân phía sau và sân trước, đi lên lấy xe, đội nón bảo hiểm chạy về hướng thị xã Tân An, sau đó chạy về nhà.
Khoảng 1 tuần sau gây án, sợ bị phát hiện Hải lấy quần áo đã mặc lúc gây án và 1 sợi dây nịt bằng da ra phía sau vườn nhà chị Len (dì của Hải) đốt để phi tang.
Đến ngày 21-3-2008 Hồ Duy Hải bị cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Long An bắt.
Tại “BB khám nghiệm hiện trường” ngày 13-1-2008 thể hiện như sau:
Tại chân cầu thang có 2 xác nạn nhân chết.
Nạn nhân Vân: nằm ngửa, đầu gối lên đùi trái nạn nhân Hồng, hai chân duỗi về hướng Bắc, chân trái dang ra và gác lên một cái ghế xếp khung bằng inox, mặt ghế bằng nệm mút màu xanh, trên mặt nệm có dấu vết máu quyệt và dấu vết đế dép dính những hạt cơm khô. Trên chân ghế có dính máu.
Nạn nhân Hồng nằm ngửa, mặc đồ bộ màu hồng nhạt, áo ngắn tay cuốn lên để lộ hai núm vú và áo ngực màu trắng. Hai tay co lên vai, chân phải co, chân trái dang ra và đầu nạn nhân Vân gối lên. Trên đầu Hồng có một bộ phận bếp dầu hình trụ chụp vòng trong của bếp và một tấm thớt gỗ.
Nơi hai nạn nhân nằm có vũng máu chưa khô hoàn toàn. Xung quanh 2 xác nạn nhân có nhiều đồ rơi vãi như dầu ăn, nước mắm, mì gói. Trên mặt nền nhà vệ sinh có giọt máu nhỏ giọt hình tròn đường kính 7mm. Phía trên mặt rửa nước Lavabô có nhiều sợi tóc màu đen.
Trong quá trình điều tra, tiến hành cho Hải tự khai nhận, vẽ sơ đồ hiện trường nơi xảy ra vụ án, chi tiết từng khu vực, nhiều lần. Tất cả đều trùng khớp với diễn biến vụ án xảy ra đêm ngày 13-1-2008.
Ngày 26-8-2008, cho Hải nhận dạng qua hình ảnh để xác định từng nạn nhân cũng như các vật chứng gây án như : tấm thớt gỗ mà Hải cầm để đánh Hồng. Con dao mà Hải sử dụng trong lúc gây án có đặc điểm như sau: cán bằng nhựa màu đen dài 11,5cm, lưỡi bằng Inox mũi dao bầu KT 16,5cm x 3,7cm. Kết quả phù hợp với lời khai của các anh: Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Tuấn Ngọc, Võ Văn Hồng - là những người phát hiện con dao.
Ngày 22-7-2008 cho Hải nhận dạng tài sản vàng : dây chuyền, nhẫn, bông tai, chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 1100 mà bị can chiếm đoạt và bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Phù hợp với các lời khai của Nguyễn Văn Mừng, Nguyễn Văn Hộ, Lê Thị Thu Hiếu, Nguyễn Mi Sol, Đinh Phú Hùng, Đặng Thị Phương Thảo - là những người thân của 2 bị hại Vân và Hồng.
Ngày 20-8-2008, cho Hải thực nghiệm lại toàn bộ hành vi, diễn biến vụ án, tất cả đều trùng khớp với các lời khai của bị can nhận tội và kết quả khám nghiệm hiện trường, tử thi.
Từ những tình tiết và chứng cứ đã nêu trên kết luận Hồ Duy Hải đã giết hai nạn nhân Hồng và Vân”.
Ý kiến trình bày của chúng tôi:
Theo Cáo Trạng như trên, chúng tôi xin trình bày về các tình tiết vô lý và sự mâu thuẫn giữa thực tế so với kết quả điều tra.
1. Qui kết Hải dùng tay giết người, để lại rất nhiều dấu vân tay tại hiện trường - sao kết quả giám định không trùng khớp dấu vân tay của Hải ?
Theo Cáo Trạng, hung thủ (Hải) đã thực hiện hàng loạt động tác từ dùng tay bóp cổ, đến dùng hung khí (dao, thớt, ghế …) đập đầu, cắt cổ hai nạn nhân. Tại BB khám nghiệm hiện trường ngày 14-1-2008 (BL44-47) ghi rõ : “ trên kính (cửa vào buồng ngủ) có dấu vết đường vân”, “ ở mặt trong của kính trên cánh cửa (buồng vệ sinh) có 1 số dấu vết đường vân”. “ trên labo rửa có 1 số dấu vết đường vân”. (Những vết vân tay này đã được thu giữ).
Như vậy, nếu đúng Hải là thủ phạm giết người thì chắc chắn những dấu vân này phải là của Hải. Không thể khác được.
Vậy mà, theo kết quả giám định, thể hiện tại Bản kết luận giám định số 158/KL-PC21 ngày 11-4-2008 của Phòng KTHS công an tỉnh Long An (BL 53) thì: “các dấu vết vân tay thu được tại hiện trường vụ án không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên bản chỉ của Hồ Duy Hải”.
Qua đó, có thể khẳng định toàn bộ lời khai nhận tội của Hải đều hoàn toàn không phù hợp với hiện trường vụ án. Hay nói cách khác, Hải không thể là hung thủ giết người.
2. Hung thủ là người không đi xe máy vào buổi tối khi gây án:
Theo Cáo Trạng, qui kết rằng Hải đến bưu điện bằng xe Honda, sau khi giết hai nạn nhân Hải đã “leo qua cửa rào ngăn giữa sân phía sau và sân trước, đi lên lấy xe” rồi tẩu thoát. Tuy nhiên theo chúng tôi điều này là vô lý và mâu thuẫn với nhiều tình tiết khác chưa được làm rõ.
Thứ nhất, theo thông tin ban đầu, dẫn lời khai của ông Lê Phụng Hiếu, nhân viên giao báo (được báo chí đăng và thể hiện trong Biên bản khám nghiệm tử thi) thì lúc 7 giờ sáng ngày 14-1-2008, khi ông Hiếu đến Bưu điện giao báo thấy cả hai cánh cổng (phía trước và phía sau) bưu điện Cầu Voi đều bị khóa.
Báo Thanh Niên ngày 15-1-2011 mô tả kỹ như sau: ”Anh Hiếu là nhân viên giao báo. Như thường lệ, khoảng 7 giờ 10 phút anh Hiếu đến Bưu cục Cầu Voi để giao báo thì thấy cửa bưu cục vẫn còn đóng kín, cổng trước và cổng sau còn khóa, gọi cửa nhiều lần không ai mở. Nghĩ có điều bất thường, anh Hiếu vòng ra phía sau leo rào vô và gõ cửa sau. Anh vừa đụng tay vào thì cửa bật mở do chỉ khép hờ. Anh Hiếu bước vào và thấy xác 2 nữ nhân viên đang nằm bên vũng máu dưới nền gạch, cạnh chân cầu thang. Ngay lập tức anh Hiếu báo vụ án mạng cho các cơ quan chức năng". (Nguồn http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/200803/222707.aspx)
Theo qui định, thông tin đăng trên báo về việc cả 2 cổng bưu điện bị khóa - chỉ có thể từ 2 nguồn: do CQĐT cung cấp hoặc báo trực tiếp hỏi anh Hiếu - nhưng lại không/chưa được ghi nhận rõ trong hồ sơ vụ án. Chúng tôi cho rằng cơ quan điều tra đã cố tình bỏ qua tình tiết này. Vì nếu thực sự hai cánh cổng bưu điện đang bị khóa, thì Hải sẽ không thể nào lấy xe Honda ra ngoài để tẩu thoát sau khi gây án được. Và như vậy, toàn bộ lời khai nhận tội của Hải cũng đều không còn giá trị.
Việc Vân sau khi đi mua trái cây về đã khóa luôn cổng ngoài là hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ bưu điện Cầu Voi quay mặt ra Quốc lộ I, là khu vực phức tạp, đông người qua lại. Do vậy, giả sử rằng Hải thực sự có đến bưu điện và để xe Hoda ở phía sân trước như Cáo Trạng đã nêu, thì chắc chắn cũng không thể có việc Vân sau khi đi mua trái cây về đã đóng hai lớp cửa (cửa sắt cuốn và cửa kính) rồi đi vào trong nhà mà không khóa cổng ngoài. Vì lẽ lúc này trong bưu điện đang có khách (là Hải), đang có xe Honda dựng ở ngoài sân, giáp ngay mặt đường, lại vào buổi tối - nếu đóng kín cửa như vậy thì người bên trong nhà sẽ hoàn toàn bị cách ly, không thể nhìn thấy bên ngoài, không theo dõi được chiếc xe Honda (không an toàn, sẽ bị kẻ gian lấy cắp xe).

( Chú thích ảnh: Với mặt tiền quay ra đường quốc lộ, nếu đóng cửa bên trong sẽ hoàn toàn cách ly với bên ngoài, liệu Vân có thể để kéo cả hai cánh cửa ( cánh cửa sắt cuốn bên ngoài và cửa nhôm – kính bên trong) mà không khóa cánh cổng bên ngoài hay không? Mặt khác, cổng trước bị khóa thì làm sao Hải có thể khiêng xe Honda ra bên ngoài sau khi gây án?)
Hay nói cách khác, chúng tôi cho rằng hung thủ không thể là người đi xe máy vào buổi tối hôm gây án. Và do vậy, cũng không thể là Hải.
3. Khả năng Hải có mặt và ngồi chơi lâu (sau 21 giờ) tại bưu điện Cầu Voi là không hợp lý:
Tuy nhiên, qua tình tiết cả hai cánh cổng (trước và sau) đều đã khóa chặt, trong khi đèn ở nhà vệ sinh phía sau bật sáng, Hồng tháo nữ trang bỏ vào két sắt (lúc 17 giờ chiều còn đeo) - đã tạo ra khung cảnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập” ở bưu điện sau khi Vân đi mua trái cây về.
Điều này cho thấy vị khách (mà theo chúng tôi chính là hung thủ) hoặc là từ bên ngoài leo rào vào hoặc chắc chắn phải là người rất thân quen, tin tưởng với cả hai nạn nhân và không đi xe gắn máy. Thậm chí người này nhiều khả năng được Hồng và Vân đồng ý và sẽ ngủ đêm lại ngay trong bưu điện. Người này chắc chắn không thể là Hải. Vì Hải không có mức độ quen thân với Hồng hay Vân đến mức có thể ngủ qua đêm, lại mang theo chiếc xe Honda mượn của người dì.
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, hai người có khả năng ngủ lại qua đêm là ông Nguyễn Mi Sol – người có lời khai đang “sống như vợ chồng” với Hồng hoặc ông Nguyễn Văn Nghị - là hai người yêu của Hồng tại thời điểm đó.
Cụ thể, theo “BB ghi lời khai” ngày 21-6-2008 (BL 209,210) ông Sol khai : “Sau khi lên TP.HCM thì tôi cũng thường xuyên về bưu điện sống chung như vợ chồng với Hồng. Trung bình cứ 1 tuần lễ thì về 1 ngày. Thời gian gần nhất trước khi Hồng Vân bị giết, về bưu điện vào ngày thứ tư 9-1 đến sáng thứ năm 10-1 tôi mới đi TP.HCM làm tiếp”. Cho thấy việc ông Sol ngủ qua đêm tại bưu điện Cầu Voi là rất bình thường.
Không chỉ vậy, hồ sơ vụ án thể hiện buổi tối hôm xảy ra vụ án mạng (Chủ nhật ngày 13-1-2008) chính là ngày ông Sol có hẹn trước việc sẽ về thăm Hồng tại bưu điện Cầu Voi. Tại “BB ghi lời khai” ngày 19-1-2008 (BL 197) chị Lê Thị Thu Hiếu (bạn thân của Hồng và Vân) khai như sau: “Tôi nghe chị Vân : hai đứa gái không đường xe cộ không mà đi làm gì. Chiều anh Sol về chứ gì phải đi”. Trong ngày xảy ra vụ án 13-1-2008, chị Hiếu đã ở chơi với Hồng và Vân tại bưu điện tới 5 giờ chiều mới về, không hề thấy cuộc gọi nào của Sol nói hủy việc về thăm Hồng. Cũng không thấy Hồng nhắn hay hẹn ai khác.
( Chú thích ảnh: lời khai của chị Hiếu cho thấy MiSol có lời hẹn về thăm nạn nhân Hồng vào tối ngày 13-1-2008 (tối xảy ra vụ án). Cuộc hẹn này không hề bị hủy bỏ tính đến lúc 17h chiều ngày hôm đó. Tại sao trong hồ sơ vụ án không có lời khai nào của MiSol về vấn đề này ? Hoặc nếu có thì tại sao những lời khai này không có trong hồ sơ vụ án ?)
Về các mối quan hệ của Hồng, duy nhất chỉ có “BB ghi lời khai” ngày 14-3-2008 (BL 191,192), ông Cao Hoàng Tuấn Anh (bạn trai của Vân) nói về các mối quan hệ thân quen của Hồng, đó là hai người : Sol và Nghị.
Ngoài ra, trước thời điểm Hải bị bắt (ngày 21-3-2008), trên các báo đưa nhiều thông tin về các mối quan hệ của Hồng – đều không cho thấy có Hải.
Trên báo Thanh niên, bài báo “Liên quan đến vụ giết hại 2 nhân viên Bưu điện Cầu Voi: triệu tập khẩn cấp 4 thanh niên” ngày 16-1-2008 viết: “Theo người dân địa phương thì từ lâu nạn nhân Ánh Hồng có mối quan hệ khá thân với một thợ bạc của tiệm vàng. Nhưng gần đây người ta còn thấy nạn nhân có mối quan hệ thân thiết với một thanh niên khác, quê ở Tiền Giang. Và ngay trong đêm xảy ra án mạng, có người xác nhận chính anh ta xuất hiện tại Bưu điện Cầu Voi, nhưng đi về lúc nào, bằng phương tiện gì thì không ai biết”.
(http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages /200803/222812.aspx). Người này được xác định là ông Nguyễn Văn Nghị.
Hơn nữa, việc Hải có mặt tại bưu điện Cầu Voi tối 13-1-2008 ngoài lời khai nhận của chính Hải, những thông tin khác đều không rõ ràng. Điều đáng lưu ý hơn là không cho thấy Hải có mặt ở bưu điện tại thời điểm dự đoán xảy ra vụ án (dự đoán của Cơ quan điều tra là lúc khoảng gần 21h), mà đều trước thời điểm này cả giờ đồng hồ.
Cụ thể, hồ sơ vụ án thể hiện chỉ có 2 người có lời khai về việc nhìn thấy “một người thanh niên” ở bưu điện Cầu Voi vào thời điểm lân cận 20h. Đó là lời khai của anh Hồ Văn Bình và anh Đinh Vũ Thường.
Tại “BB ghi lời khai” ngày 28-1-2008, anh Bình khai “Khoảng ngoài 19h, tôi nhìn vào phòng khách, ngay bàn salon thấy có một thanh niên ngồi trên ghế salon nói chuyện với Hồng”. “Khoảng ngoài 19h30 tôi vẫn thấy Hồng và thanh niên trên ngồi trên salon nói chuyện”.
Tại “BB ghi lời khai” ngày 31-3-2008 (BL 249-251) anh Thường khai : “Khoảng 20h, khi đi vào trong tôi thấy một một thanh niên ngồi giữa trên thế salon”.
Trong bối cảnh như vậy, liệu có hợp lý không khi qui kết rằng Hải đã tới bưu điện, ngồi chơi (và được Hồng chấp nhận cho ngồi chơi) tới lúc khoảng 21h, sau đó ra tay giết Hồng và Vân?
4. Hàng loạt tình tiết mâu thuẫn trong lời khai nhận tội của Hồ Duy Hải:
Ngoài những điểm vô lý cơ bản như trình bày ở trên, nếu thực sự Hải đã giết người thì rất nhiều lời khai (dù là nhận tội) của Hải, được cơ quan điều tra ghi nhận, song nếu xem xét kỹ sẽ thấy rất phi lý, mâu thuẫn và chưa được làm rõ.
Cụ thể như sau:
1/ Hải có thực sự đã “đi dép lào” và “bỏ dép ở ngoài bậc tam cấp”?
Theo “Kết luận điều tra” (BL 386), đêm 13-1-2008 khi gây án Hải “đi dép lào trắng”. Khi vào bưu cục Hải “bỏ dép ở bậc tam cấp và đi vào”. Sau khi giết xong Hồng và Vân, “Hải mang dép đi đến bàn salon lấy điện thoại”.
Nếu thật sự đúng như vậy, thì có nhiều điểm vô lý như sau:
- Một là, để “mang dép” sau khi giết người, Hải bắt buộc phải kéo (mở) 2 lớp cửa để lấy dép, vì “bậc tam cấp” nằm bên ngoài cửa sắt cuốn. Trong khi theo Cáo Trạng thì Vân đã đóng hai lớp cửa này sau khi đi mua trái cây về. Điều này Hải không hề khai ra và chưa bao giờ được làm rõ.
- Hai là, Cáo Trạng xác định là khi gây án (giết hai nạn nhân) Hải không mang dép. Điều này cho thấy Hải không thể tạo ra dấu dép trên mặt ghế. Trong khi đó, theo “BB khám nghiệm hiện trường” lại cho thấy tại hiện trường một chân của nạn nhân Vân gác lên mặt một chiếc ghế xếp inox và “trên mặt nệm ghế có dấu vết máu quệt và dấu vết đế dép dính những hạt cơm khô”. Vậy ai là người đã để lại dấu dép này ? Điều này chưa bao giờ được làm rõ.
2/ Không thể có việc Hải đã dùng thớt gỗ đập vào đầu Hồng
Tại BB khám nghiệm hiện trường ngày 14-1-2008, có ghi nhận khu vực phía trên đầu nạn nhân Hồng có một số vật dụng trong đó “có một cái thớt gỗ”. Nhưng cái thớt gỗ này đã không được thu giữ. Lý do: trong biên bản ghi rõ là “không thấy liên quan đến vụ án”. Điều này cho thấy khi khám xét tại hiện trường, cái thớt này không hề có dính dấu máu, vết vân tay…vv.
Đến ngày 21-3-2008 khi Hải bị bắt, Hải không hề có bất cứ lời khai nào nói rằng đã dùng cái thớt để đánh vào đầu nạn nhân Hồng ( Mà Hải đều khai rằng đã đập đầu nạn nhân Hồng vào “bể nước” – trong khi tại bưu điện không hề có bể nước, rằng đã cắt cổ Hồng ở nhà vệ sinh rồi kéo vào chân cầu thang …vv. Tuy nhiên, vì lời khai này không phù hợp với lời khai của nhân chứng là “không thấy ai ở nhà vệ sinh” nên sau đó Hải đã phải “khai lại” là đã cắt cổ nạn nhân Hồng ở ngay chân cầu thang.
Tuy nhiên, có lẽ qua dấu vết các vết thương trên mặt nạn nhân Hồng (các vết bầm ở mắt, vết rách hình thù khác nhau …), cho thấy cái dao không thể nào gây ra được những vết thương như vậy. Nên cơ quan điều tra đã nghĩ tới cái thớt mà trong BB đã ghi nhận. Đồng thời cho giám định pháp y. Kết quả cho thấy các vết thương phải là vật có đầu tù – nhưng không thể là vết thương trên mặt (mà là các vết bầm nơi khác). Theo đó, Hải đã phải “khai lại” lần nữa, theo hướng đã dùng cái thớt đập vào đầu nạn nhân Hồng trước khi cắt cổ.
Đến ngày 24-6-2008, theo yêu cầu của CQĐT, bà Lê Thị Thu Hiếu (bạn của Hồng và Vân) đã mua tấm thớt để giao nộp cho CQĐT ( Theo “BB xác định đồ vật” ngày 26-6-2008, BL số 205). Điều này đã nói lên rằng cái thớt hiện nay không phải là tang vật mà chỉ là “vật minh họa”.
Trong khi đó, theo Cáo Trạng thì Hải đã dùng hai tay cầm thớt đập vào mặt Hồng nhiều cái, gây nhiều vết thương rất nặng. Theo bản ảnh, có thể thấy mặt Hồng có nhiều vết rách sắc, dài, thẳng và gây chảy máu.
( Chú thích ảnh : Liệu những vết thương hình thù như trên có thể là do cái thớt gây nên? Vả lại, nếu thực sự do cái thớt gây nên thì chắc chắn trên thớt phải dính máu của nạn nhân. Thế nhưng khi khám xét hiện trường, cơ quan điều tra đã xác định rõ có một cái thớt nhưng cái thớt này “không có dấu vết gì liên quan đến vụ án”. Vậy việc kết luận rằng Hải đã dùng thớt đập nhiều cái vào đầu vào mặt nạn nhân Hồng có hợp lý không? Chưa kể theo Cáo Trạng thì Hải dùng hai tay thớt đập vào mặt Hồng khi Hồng đang nằm trên sàn nhà. Nếu như vậy, thì vết rách hoặc phải có hình cong – do tác động của cạnh chiếc thớt gỗ tròn, hoặc phải là vết dập nát – do bề dày của cạnh thớt tác động vào. Và lý giải như thế nào về vết cắt dọc phía bên mắt phải và vết rạch chéo, thẳng dài cũng bên mắt phải nạn nhân ? – vì rõ ràng không có tư thế nào cho thấy cái thớt có thể gây ra vết thương này được).
Nếu đúng là Hải đã dùng thớt đập vào mặt Hồng thì chắc chắn trên thớt phải có vết máu, phải có dấu vân tay. Vết rách cũng phải có dạng hình vòng cung, miệng rộng và rách tươm – vì chiếc thớt không thể nào gây ra vết rách bén gọn như vậy được. Trong khi đó, theo công văn số 37/GT.PY.08 ngày 7-4-2008 thì “vùng mặt có những vết rách da bờ mép sắc gọn. Điều đó chứng tỏ vùng mặt của nạn nhân có các vật cứng sắc gọn và bị va đập nhiều lần”.
Trong khi đó, cái thớt chắc chắn không thể là vật “sắc gọn”. Hay nói cách khác, việc qui kết rằng Hải đã dùng thớt để đập vào mặt Hồng là phi lý, khiên cưỡng.
Chưa kể về cái thớt này, còn có sự mâu thuẫn giữa lời khai của ông Sol và bà Hiếu. Cụ thể, trong “BB ghi lời khai” ngày 21-6-2008 (BL 210) ông Sol khai tại bưu điện có 2 cái thớt “một thớt nhựa màu trắng và một thớt gỗ tròn”. Trong quá trình điều tra, không hề cho ông Sol nhận dạng cái thớt hay đối chất làm rõ đó có phải là cái thớt ở bưu điện Cầu Voi hay không.
3/ Hải có thực sự đã dùng ghế đập đầu Vân?
Cũng theo Cáo Trạng, Hải đã dùng chiếc ghế inox để đập mạnh vào đầu Vân, sau đó quăng ghế xuống đất.
Nếu sự thật đúng như vậy thì chắc chắn trên mặt ghế cũng không thể còn dính “những hạt cơm khô” (ngoài dấu dép nói trên). Vì với tác động của lực đập xuống, những hạt cơm khô sẽ rơi ra khỏi mặt ghế.
Ngoài ra, trên mặt Vân còn có 2 vết thương rách mặt, tụ máu hình vuông. Liệu chiếc ghế có thể gây ra vết thương này hay không ? Và trong khi Hải cũng không hề có lời khai nào liên quan đến việc dùng ghế đánh vào mặt Vân.
(Chú thích ảnh: 2 vết thương này trên mặt nạn nhân Vân không thể do dùng ghế đập xuống. Hải cũng không có lời khai về việc dùng ghế hay vật gì đập vào mặt nạn nhân)
4/ Không thể có việc Hải “đứng ở chân cầu thang thấy Vân đóng cửa”, thấy Vân “đặt bịch trái cây lên bàn salon”:
Theo Cáo trạng, sau khi giết Hồng, “Hải dắt dao vào lưng quần, đi vào chân cầu thang đứng nhìn ra phía trước thấy Vân đi mua trái cây từ phía ngoài đi vào. Hải núp vào chân cầu thang, quan sát thấy Vân kéo cửa sắt phía trước xuống (đóng cửa) rồi đi vào bỏ bịch trái cây lên bàn salon”.
Đây là kết luận hoàn toàn vô lý, không thể có. Vì trên thực tế tại vị trí chân cầu thang chắc chắn không thể nhìn thấy cánh cửa phía bên ngoài, vì bị chắn bởi 2 bức tường. Nên Hải không thể thấy được Vân đóng cửa. Còn nếu muốn nhìn thấy Vân đặt bịch trái cây lên bàn thì Hải cũng phải nhìn xuyên qua một bức tường. Điều này là không thể
(Chú thích ảnh: Từ vị trí chân cầu thang, không thể nào nhìn thấy cửa trước và bàn salon. Ảnh chụp từ vị trí ngay giữa cửa đã không nhìn thấy. Do vậy, việc qui kết Hải đứng ở chân cầu thang (xê về phía bên phải) mà vẫn nhìn thấy Vân đóng cửa, đặt bịch trái cây lên bàn là phi lý).
5/ Khác biệt về tài sản Hải khai đã cướp và tài sản bị mất của hai nạn nhân:
Về tài sản của Hồng, có sự khác biệt về kiểu dáng chiếc lắc đeo tay. Theo ông Nguyễn Văn Mừng (ba Hồng, tại “BB ghi lời khai” ngày 26-7-2008 – BL 166, 168) thì Hồng có “1 chiếc lắc gọng vàng cứng – không phải vòng dây”.
Còn theo ông Nguyễn Mi Sol, tại “BB ghi lời khai” (BL210) Hồng có “1 cái lắc kiểu trái châu móc máy”.
Trong khi đó, tại tất cả các bản khai, Hải đều khai đã lấy của Hồng : “1 vòng đeo tay dạng xích”.
Như vậy, có sự khác biệt hoàn toàn về kiểu dáng chiếc vòng tay (lắc) trong lời khai của 3 người. Lẽ ra trong trường hợp này CQĐT phải cho đối chất hay nhận dạng chiếc lắc. Theo hồ sơ thì CQĐT có cho Mi Sol nhận dạng qua ảnh và kết quả là nhận dạng ra chiếc lắc giống chiếc lắc mà Hải đã nhận dạng. Nhưng điều này là vô lý. Vì nếu trước đó CQĐT căn cứ vào lời khai của Hải để “chụp ảnh” cái lắc đồng dạng ở đâu đó ( vì thực tế cũng không thu được chiếc lắc này) thì chắc chắn sẽ không trùng khớp với lời khai của MiSol (“xích” khác “trái châu”). Ngoài ra, biên bản nhận dạng của Sol không có người chứng kiến là sai luật. Còn ông Mừng thì không được cho nhận dạng.
Về tài sản của Vân : không có nhẫn và lắc – thì Hải lại khai đã lấy (!?). Cụ thể, theo ông Nguyễn Văn Hộ (ba Vân, tại các “BB ghi lời khai” ngày 14-1-2008 và ngày 24-7-2008, BL 160 -163) thì Vân có : “1 đôi bông tai và 1 sợi dây chuyền”. Khớp với lời khai của bà Lê Thị Thu Hiếu và ông Nguyễn Mi Sol.
Về “tài sản bị mất”, theo ông Hộ, Vân bị mất 1 sợi dây chuyền (không có mặt). Trong khi đó, tại tất cả các “BB ghi lời khai” Hải đều khai có lấy của Vân : “1 hoặc 2 nhẫn, 1 dây chuyền và 1 vòng đeo tay (lắc)”.
Qua đó có sự mâu thuẫn lớn : Vân không có nhẫn thì Hải lại khai lấy 1 hoặc 2 nhẫn. Vân không có vòng đeo tay thì Hải lại khai đã lấy của Vân 1 vòng đeo tay (!?)
5. Hàng loạt tình tiết vô lý, đáng ngờ khác chưa được làm rõ :
1/Ai đã đặt chân nạn nhân Vân lên mặt ghế ?
Theo Cáo trạng, sau khi dùng ghế đập vào đầu Vân, “Hải đi ra phía sau và quăng bỏ chiếc ghế xuống nền gạch gần xác chết của Hồng”, tức là chiếc ghế nằm dưới sàn nhà.
Thế nhưng tại “Biên bản khám nghiệm hiện trường” và trong Cáo Trạng đều thể hiện rõ : Nạn nhân Vân: tư thế nằm ngửa, đầu gối lên đùi trái nạn nhân Hồng, “chân trái dang ra và gác lên một cái ghế xếp khung ghế bằng inox mặt ghế bằng nệm mút màu xanh”. (Ngoài ra “trên mặt ghế còn có dấu dép, vết máu (như phân tích ở trên) nhưng đã không được thu giữ).
Đây là tình tiết chưa bao giờ được làm rõ, trong khi không có bất kỳ lời khai nào của Hải nói rằng Hải đã đặt chân nạn nhân Vân lên ghế đang dựng đứng. Chưa kể là nếu Hải thực sự đã thực hiện những động tác giết người như trong Cáo Trạng qui kết – tức là dùng ghế đập vào đầu Vân, sao đó quăng xuống sàn nhà thì chắc chắn không thể nào tạo ra tư thế Vân gác chân lên ghế. Vậy ai là người đã khiêng và đặt chân của Vân lên ghế ?
Chưa kể quá trình thu thập chiếc ghế được xác định là hung khí này (theo quan điểm của VKS) cũng rất “kỳ lạ” như sau:
Tại “BB ghi lời khai” ngày 28-1-2008 (BL 226) ông Nguyễn Văn Thu (dân phòng, dọn dẹp hiện trường) khai : Lúc 15h ngày 14-1-2008, “khi dọn dẹp hiện trường tôi phát hiện một cái ghế inox xếp màu xanh được xếp lại dựng dựa vào tường phía bên phải nhìn vào cuối hàng ghế nhựa. Sau đó ai mang ra ngoài thì tôi không biết”.
Tại “BB ghi lời khai” ngày 28-1-2008 (BL 242) ông Nguyễn Văn Vàng khai : “Trong ngày 14-1-2008, tôi thấy một cái ghế xếp có khung và chân bằng inox nệm màu xanh, ghế đã được xếp lại dựng ở vách phòng máy phát điện ở phía sau bưu cục”.
Hai lời khai trên hoàn toàn không khớp về vị trí cái ghế khi được “phát hiện”. Một người thì thấy ghế dựng ở vách tường trong nhà, người kia lại thấy dựng ở vách phòng để máy phát điện cách đó hơn 10m. Nhưng điều quan trọng hơn là chiếc ghế này hoàn toàn không cho thấy có sự liên quan gì đến chiếc ghế mà Vân đã “gác chân lên” và “trên mặt ghế có dấu dép, vết máu” – như ghi nhận trong Biên bản khám nghiệm hiện trường.
Mãi đến ngày 25-3-2008, khoảng 2,5 tháng sau khi vụ án mạng xảy ra, cơ quan điều tra mới lập “Biên bản tạm giữ đồ vật, tài sản” (BL 328) thu chiếc ghế do ông Thu và ông Vàng “phát hiện”. Rõ ràng không có gì bảo đảm rằng chiếc ghế “tang vật” hiện nay là chiếc ghế mà hung thủ đã sử dụng. Và câu hỏi lớn đặt ra là : chiếc ghế “có vết dép và dính máu” – liên quan trực tiếp đến vụ án mạng, vì sao đã “biến mất”? Ai đã dấu hoặc lấy đi chiếc ghế này? Tại sao CQĐT không thu giữ chiếc ghế này ngay từ khi khám nghiệm hiện trường ngày 14-1-2008?
2/Ai đã kéo áo nạn nhân Hồng lên quá ngực ?
Theo ảnh chụp tại hiện trường, áo ngoài và áo lót của nạn nhân Hồng bị kéo lên tới tận cổ, hở hết cả hai đầu vú.
Theo Cáo Trạng, Hải đã có hành động “bóp cổ” và đánh vào mặt Hồng. Nhưng chắc chắn những hành động này không thể làm cho cả hai lớp áo của nạn nhân bị kéo sốc lên quá cao như vậy. Ai đã làm việc này?
3/ Ai đã tạo ra các “vết bầm” ở chân nạn nhân Hồng ?
Tại “BB khám nghiệm tử thi” - BL 56) và BB giám định pháp y (BL60) đều thể hiện trên cơ thể nạn nhân Hồng “có một số vết bầm máu làm da sậm màu ở mặt trước đùi chân phải, mặt trước cẳng chân trái”. Có thể thấy rõ các vết bầm này là do tác động của ngoại lực chứ không thể tự nhiên mà có.
Vậy ai là người đã gây ra những dấu vết này? bằng vật dụng gì ? Đây là điều tới nay chưa bao giờ được làm rõ. Trong khi Hải không hề có bất kỳ lời khai nào liên quan đến việc đã đánh hay tác động vào phần chân của nạn nhân Hồng.
4/ Vì sao Hải biết được màu quần lót của nạn nhân Hồng?
Trong “BB hỏi cung bị can” ngày 10-6-2008 (BL 91), Hải khai thấy Hồng mặc “quần sì màu trắng”. Hải không thể biết được tình tiết này trong khi hai người (Hải và Hồng) không hề giao cấu với nhau, ảnh chụp cho thấy quần của nạn nhân không bị tụt (còn nguyên). Cơ sở nào Hải biết và khai như vậy?
5/ Chưa thể kết luận về thời điểm hai nạn nhân chết/bị giết, cơ sở đâu qui kết Hải đã giết người “lúc khoảng 20h 30 phút đến 21h”:
Theo hồ sơ vụ án, không có tài liệu nào xác định một cách khoa học thời điểm hai nạn nhân bị giết. Việc kết luận Hải đã giết hai nạn nhân vào lúc khoảng từ 20h30 đến 21h là hoàn toàn suy đoán chủ quan. Tuy nhiên, có thể khẳng định chắc chắn rằng không phải ở thời điểm lúc khoảng 20h30 phút.
Trước hết, việc Cáo Trạng xác định “ Đến khoảng 20h30 bưu điện nghỉ, Hải đưa tiền và kêu Vân đi mua trái cây” là không hợp lý. Vì:
Theo “BB xác định thời gian” ngày 16-1-2008 (BL 262) thì tới 21h 1phút Vân vẫn đang ở tiệm bán trái cây bên ngoài. Đoạn đường từ bưu điện đến chỗ bán trái cây chỉ khoảng hơn 100m, nên có thể khẳng định chắc chắn đến 20h45 chưa xảy ra chuyện giết người. Thời điểm này đã cách xa thời điểm các nhân chứng nhìn thấy một “người thanh niên” khoảng 1 giờ - nếu thực sự đó là Hải.
Theo BB khám nghiệm tử thi ngày 14-01-2008 (BL 54) và 2 “Bản giám định pháp y” ngày 17-01-2008 (BL 60, 61) thì cả hai nạn nhân đều “nằm trên nền gạch, máu chảy đọng vũng trên nền gạch”. Điều này cho thấy Hồng, Vân bị giết chưa lâu (tính đến thời điểm khám nghiệm hiện trường là khoảng 9 giờ trưa) vì máu vẫn chưa kịp khô.
Ngoài ra, theo lời khai của nhân chứng Hiếu, người đã ở chơi suốt từ trưa đến lúc 17 giờ mới ra về ( BL 197, BB lời khai Hiếu), lúc này Hồng - Vân chưa nấu ăn, và chén đã rửa sạch. Nhưng tại “BB khám nghiệm hiện trường” (BL 47) ghi nhận tại hiện trường trên bàn có “ ly, tô, dĩa đã sử dụng chưa rửa” và theo “Bản giám định pháp y” số 21/PY.08 ngày 17-1-2008 thì bụng Hồng có : “dạ dày có chứa thức ăn đã nhuyễn, lượng ít”. Điều này cho thấy các nạn nhân đã ăn tối. Thời gian ăn tối sớm nhất cũng không thể trước 17h30 phút và từ khi ăn cho đến khi bị giết phải khá lâu để thức ăn tiêu hóa. Do vậy, nếu cho rằng Hồng đã giết vào khoảng 8h45 thì thức ăn chưa thể “nhuyễn” như mô tả. Điều này cho thấy có khả năng nạn nhân đã bị giết trễ hơn (sau 21h).
6/ Tiếng kêu của nạn nhân và thời điểm nghe tiếng kêu:
Có sự mâu thuẫn giữa Kết luận điều tra (BL 383) và Cáo Trạng (BL520). Theo KLĐT thì Vân là người “hoảng hốt la á á” (Hồng không kêu la). Nhưng theo Cáo Trạng thì Hồng là người “kêu la á á rất lớn”.
Về thời gian, theo “BB ghi lời khai” chị Huỳnh Thị Kim Tuyền ngày 29-3-2008 (BL 258) thì vào lúc khoảng 20h30 phút có nghe tiếng la “ướt ướt”. Điều này là không hợp lý, vì lúc 20h30 Vân chưa đi mua trái cây. Nên lúc này chưa thể có chuyện giết người. Đây là sự mâu thuẫn cần làm rõ.
7/ Hải có đi uống cà phê, xem đá bóng vào buổi tối 13-1-2008 sau khi gây án?
Theo “BB ghi lời khai ngày 7-4-2008, BL 87) Hải khai sau khi gây án : “lúc này khoảng 22h giờ, tôi không về nhà mà chạy thẳng đến quán bà 2A gặp anh Chương và anh Lĩnh (làm công trình siêu tốc) đang ngồi xem đá banh. Tôi không nói gì xem đá banh, khoảng 30 phút tôi chạy xe Honda về nhà”.
Đây là tình tiết quan trọng vì nếu xác minh, có thể xác định được tối đó Hải mặc áo gì, có mùi máu hay không, trạng thái tâm lý, thời điểm diễn biến sự việc …vv. Tại sao cơ quan điều tra không triệu tập và lấy lời khai những người này ?
8/ Từ con dao “giả định” hiện nay, liệu có thể kết luận về dụng cụ mà hung thủ dùng để cắt cổ hai nạn nhân?
Theo Cáo Trạng, Hải đã dùng “con dao thái lan dài 28cm, ngang 3 cm” của bưu điện để cắt cổ hai nạn nhân. Tuy nhiên, những tình tiết liên quan đến hung khí này (cũng giống như cái thớt và chiếc ghế - đã trình bày ở phần trên) – có nhiều sự mâu thuẫn, phi lý.
Trước hết, trong “BB khám nghiệm hiện trường” không hề ghi nhận về việc có con dao. (Mặc dù con dao thu được sau đó chỉ cách vị trí xác hai nạn nhân chưa đầy 0,5m). Nhưng sau đó, theo các “BB ghi lời khai” ngày 28-1-2008 của các ông Võ Văn Hùng (BL 232), ông Nguyễn Văn Thu (BL 226) và ông Nguyễn Văn Vàng (BL 242,243) thì ngày 14-1-2008, trong quá trình dọn dẹp hiện trường, đã “phát hiện một con dao nằm giữa tấm bảng và vách tường”. Con dao này đã không được cơ quan điều tra thu giữ khi đó vì (theo ý kiến chỉ đạo của một công an) “rất sạch, không có vết máu”. Sau đó, ông Ngọc đã đem đốt con dao này.
Qua ngày 15-1-2008, công an cho tìm lại con dao nhưng không thấy. Do vậy đã yêu cầu ông Thu tự đi mua lại con dao khác để thay vào. Ông Thu đã mua 1 con dao khác và nộp cho CQĐT – thể hiện tại “BB ghi lời khai” (BL 229). Tuy nhiên, việc thu giữ này không hề được lập thành biên bản theo qui định, không đưa con dao thành “vật chứng”.
Tại “BB ghi lời khai” (BL 232) ngày 28-1-2008 ông Hùng (3 Dũng) tả về con dao phát hiện tại hiện trường như sau: “lưỡi bằng inox trắng, lưỡi dài khoảng 20cm, lưỡi phần dưới bằng phần sóng dao, bầu xuống, lưỡi hơi nhọn, cán bằng nhựa màu đen, hơi dẹp dài khoảng 10cm”. “Con dao rất sạch, còn rất mới vì phần lưỡi dao vẫn còn dấu sọc sọc như chưa được mài”. Các ông Thu, Vàng (BL 226 &242,243) cũng đều khai : “lưỡi bén dao còn mới ”, “dao rất sạch giống như vừa mới được để vào chứ không phải là đã để từ lâu. Lưỡi dao rất bén”.
Đến ngày 20-3-2008, ông Thu có xác nhận vào hình vẽ (BL231) là “con dao này là do tôi mua nộp cho công an”. (dao dài 28cm, lưỡi ngang 3,7cm).
Trong khi đó, tại “BB ghi lời khai” (BL198) ngày 19-1-2008, chị Lê Thị Thu Hiếu khai như sau: “trong bưu điện có sử dụng 2 con dao. Một con dao thái nhỏ dài khoảng 15cm, phần lưỡi cỡ 5cm. Con dao lớn thì dài khoảng 35cm, phần lưỡi kim loại trắng dài 25cm, bề ngang khoảng 5cm, hơn nhọn về phía mũi dao. Các dao này thường để ngay ghế, bàn nấu ăn chân cầu thang”. Điều đáng lưu ý là kích thước của con dao lớn đã bị “ai đó” sửa bất hợp pháp ( không có chữ ký xác nhận của người khai) chiều dài từ 35cm thành 30cm, lưỡi dao từ 25 thành 20cm)
 (Chú thích ảnh: Lời khai của chị Hiếu về kích thước con dao đã bị sửa cho “phù hợp” với kích thước con dao mà ông Thu đã tự mua. Lẽ ra, khi có sự khác biệt như vậy thì cơ quan điều tra phải cho đối chất hoặc cho chị Hiếu nhận dạng con dao. Nhưng điều này đã không được thực hiện)
Còn tại “BB ghi lời khai” ngày 21-6-2008 (BL 209-210) ông Sol khai ở bưu điện có 2 con dao, “một con dao nhỏ dài trên 10cm. Một con dao lớn dài khoảng gần 30cm, có cán nhựa màu đen, lưỡi dao bằng inox, mũi nhọn, lưỡi dao chỗ rộng nhất 4cm, kiểu dao thái lan. Con dao này trong ngày thứ Tư 9-1-2008 tôi có sử dụng dùng để sửa chữa nhà vệ sinh tại bưu điện”. Tại BL 204, vẽ hình 4 con dao, ông Sol ghi “Tôi xác định dao số 3 và 4 có đặc điểm và kích thước giống con dao ở bưu điện”.
Từ những tình tiết trên thấy rằng:
- Theo lời khai của ông Sol và chị Hiếu thì con dao tại bưu điện là dao cũ, ông Sol từng sử dụng để làm dụng cụ sửa chữa nhà vệ sinh. Điều này mâu thuẫn với lời khai của những người phát hiện dao cho rằng dao còn rất mới. Về kích thước, cũng có sự khác biệt rất lớn cả về chiều dài của con dao và chiều rộng của lưỡi dao (35cm so với 28cm, 3cm so với 5cm). Lẽ ra, khi có sự khác biệt như vậy thì phải cho đối chất làm rõ. CQĐT đã không làm việc này. Cũng không cho chị Hiếu nhận dạng dao.
- Dù CQĐT có cho ông Misol nhận dạng con dao (tại BL 204), nhưng ông Sol lại xác định có tới 2 con dao là “dao số 3 và 4 có đặc điểm và kích thước giống con dao ở bưu điện”. Điều này là hết sức phi lý vì : hai con dao số 3 và số 4 có kích thước hoàn toàn khác nhau. Mặt khác, ông Sol chỉ xác định về kích thước chứ không hề đánh giá độ mới – cũ của con dao. Trong khi đó, việc xác định chính xác con dao là rất quan trọng.
(Chú thích ảnh: việc ông Sol nhận cùng lúc có 2 con dao phải được hiểu là thế nào ? - Trong khi tại bưu điện chỉ có một con dao được xem là Hải đã dùng để cắt cổ hai nạn nhân. Mặt khác, theo lời khai của chị Hiếu và Sol thì con dao ở bưu cục là dao cũ, trong khi con dao được tìm thấy lại mới tinh)
Theo chúng tôi, việc CQĐT cho rằng một con dao “sạch bong, mới tinh, không có vết tích gì” là con dao Hải đã dùng để cắt cổ hai nạn nhân – trong khi con dao đó nay không còn, lại được mỗi người mô tả một kiểu, hoàn toàn khác biệt nhau từ kích thước đến độ mới cũ - là nhận định hết sức chủ quan, áp đặt phi lý.
Ngay cả việc qui kết rằng Hải sau khi cắt cổ hai nạn nhân đã rửa sạch dao tới 2 lần, rồi nhét vào phía sau bức vách – như là động tác che dấu, trong khi tại hiện trường còn đầy dấu vân tay của hung thủ lưu khắp nơi – cũng là nhận định hết sức chủ quan, không phù hợp với logic thông thường.
6. Nhiều vi phạm về tố tụng:
1/ Có dấu hiệu Hồ Duy Hải đã bị ép cung, mớn cung
Mặc dù trong hồ sơ, tất cả các Biên bản ghi lời khai, Bản tường trình của Hồ Duy Hải đều thể hiện việc Hải khai nhận mình đã giết người, cướp của – hầu hết trong từng Biên bản đều có chữ ký xác nhận của Hải và lời cam “đã nghe đọc và xác nhận là đúng sự thật”. Nhưng không có nghĩa là tất cả đều thực sự tuyệt đối khách quan, trung thực.
Chúng tôi cho rằng Hải đã bị ép cung, mớn cung vì những lý do sau đây:
- Thực tế lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam cho thấy có không ít trường hợp bị cáo nhận tội, bị kết án, nhưng sau đó được kết luận là oan, sai. Ví dụ như vụ án Nguyễn Minh Hải ở Đồng Nai, từng bị tuyên án giết người, sau đó lại trắng án vì tình cơ CQĐT phát hiện ra một người khác và người này đã nhận tội giết người.
- Nếu không bị ép cung, Hải không có lý do gì để phải kêu oan ngay tại phiên xử. Và không có lý do gì lời kêu oan của Hải lại bị “ép” thành Đơn xin giảm án.
- Nếu lời khai của Hải thực sự do Hải tự khai, không bị ép cung - thì tại sao lại mâu thuẫn, không phù hợp với hàng loạt chứng cứ, tình tiết khác - như đã trình bày ở phần trên? Đặc biệt, trong giai đoạn đầu, tuy nhận tội nhưng lời khai của Hải hoàn toàn khác biệt với Cáo Trạng ( chẳng hạn như Hải khai đập đầu Hồng ở “bể nước” – trong khi tại bưu điện không có bể nước, khai cắt cổ Hồng ở nhà vệ sinh rồi kéo xác vào trong nhà, đã quan hệ giao cấu với nạn nhân Hồng – nhưng sau khi có kết quả giám định, lời khai của những nhân chứng khác thì lời khai của Hải lại thay đổi theo hướng “phù hợp” với những tình tiết này).
- Tại sao tại phiên Tòa sơ thẩm, khi Hải khai là đã “khai theo lời kể lại của công an viên xã Nhị Thành là Nguyễn Thanh Hải và dư luận bên ngoài” thì đại diện VKS có sẵn ngay “Đơn xác nhận” của anh Hải, cho rằng không kể cho Hải về những tình tiết của vụ án. Tại sao phía VKS lại biết trước là Hải sẽ khai là bị mớn cung và đã chuẩn bị sẵn bản xác nhận của anh Hải, trong khi tại tất cả các bản khai của Hải đều ghi rõ là tự khai, là khai đúng sự thật ?
- Trong buổi thực nghiệm tại hiện trường bưu điện Cầu Voi (ngày 20-8-2008), người nhà của chúng tôi có tới xem, chứng kiến việc Hải “diễn” theo sự chỉ dẫn (gật đầu) của một cán bộ điều tra. Mỗi khi thực hiện động tác gì Hải đều phải nhìn theo người này, mỗi lần người này đều nói “Hải” và chỉ khi người này gật đầu thì Hải mới dám thực hiện. Theo “BB thực nghiệm điều tra” (BL 126-127) thì quá trình thực nghiệm có quay phim. Do vậy, việc này hoàn toàn có thể kiểm tra qua băng ghi hình.
2/ Khám xét chỗ ở không có mặt đương sự (Hồ Duy Hải)
Theo hồ sơ vụ án, lúc 18 giờ 30 đến 21h30 ngày 21-3-2008 Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của Hải (Có lập “BB khám xét”, BL 323). Tuy nhiên, quá trình khám xét lại không có mặt đương sự (Hải) – điều này là vi phạm luật tố tụng hình sự. (Theo qui định tại Điều 143 BLTTHS, khi khám xét chỗ ở phải có mặt đương sự).
Ngoài ra, quá trình khám xét này theo Biên Bản ghi nhận “thu hai đống tro”. Sau này, CQĐT cho rằng hai đóng tro này là áo, quần, dây nịt Hải đã mặc lúc gây án, vì sợ phát hiện nên đốt phi tang. Tuy nhiên, ngoài lời khai của Hải, không có đủ bằng chứng để xác định đống rác đó là do Hải đốt. Trên thực tế, phía sau nhà chúng tôi không lúc nào không có những đống tro đốt rác, đốt quần áo cũ. Đây là thói quen của gia đình, vì tại nơi chúng tôi ở không có xe thu rác.
3/ Không tiến hành đối chất, nhận dạng khi có sự mâu thuẫn trong lời khai:
Theo qui định tại Điều 138 Bộ luật tố tụng hình sự, “trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì điều tra viên tiến hành đối chất”. Việc đối chất phải lập thành Biên bản đối chất.
Trong vụ án này, có rất nhiều lời khai của các nhân chứng và Hải mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với thực tế. Ví dụ như:
- Về màu và kiểu chiếc áo “thun xanh” mà Hải đã mặc đêm gây án. Lời khai của Hải, của nhân chứng Đinh Vũ Thường và Hồ Thị Thu Thủy (em gái Hải) khác biệt về màu sắc, kiểu dáng áo.
- Về tài sản (nữ trang) bị mất của hai nạn nhân: có sự khác biệt, mâu thuẫn về số lượng, kiểu dáng.
- Về tang vật chiếc ghế : mâu thuẫn về lời khai của hai người dọn dẹp hiện trường là ông Thu, ông Vàng và Hải, mâu thuẫn với hiện trường vụ án.
- Mâu thuẫn về thời gian nghe tiếng kêu (chị Huỳnh Thị Kim Tuyền nghe tiếng kêu lúc khoảng 8h30 phút, trong theo lời khai của Hải thì lúc này chưa giết hai nạn nhân).
- Về tình tiết hai cánh cổng bên ngoài bị khóa: Ông Lê Phụng Hiếu khai cổng bị khóa, trong khi Hải khai sau khi gây án, vòng qua sân sau bưu điện dắt xe máy chạy về nhà.
- Và rất nhiều tình tiết khác về việc bán nữ trang, điện thoại …vv
Thế nhưng CQĐT đã không hề cho đối chất, làm rõ. Điều này vừa vi phạm luật TTHS, vừa làm cho việc điều tra không được khách quan, toàn diện.
4/ Tiến hành nhận dạng không có người chứng kiến
Theo qui định tại khoản 4 điều 139 BLTTHS “Việc tiến hành nhận dạng phải có mặt người chứng kiến”.
Tuy nhiên, toàn bộ 6 “Biên bản nhận dạng” của nhân chứng Nguyễn Mi Sol các ngày 21-6-2008 và 24-8-2008 (BL 211, 213, 215, 217, 219, 221), Nguyễn Tuấn Ngọc (BL 244), Đinh Vũ Thường (BL 253), Nguyễn Văn Vàng và Võ Văn Hùng (ngày 24-3-2008), “Biên bản nhận dạng” ngày 10-7-2008 (BL 144) của Hồ Duy Hải không có người chứng kiến.
5/ Cản trở quyền bào chữa, quyền tiếp xúc với bị can, bị cáo
Trong vụ án này, nếu xem trong hồ sơ thì thể hiện có nhiều luật sư bào chữa cho Hồ Duy Hải. Tuy nhiên, quá trình làm việc của luật sư do gia đình mới luôn bị gây khó khăn. Ban đầu gia đình chúng tôi có mời luật sư Khương - nhưng CQĐT không cho tiếp xúc với Hải.
Có thời điểm có hai luật sư : luật sư Đạt và luật sư Quyết. Nhưng không hiểu tại sao luật sư Quyết từ luật sư được gia đình mời lại “biến” thành luật sư chỉ định (điều này là vi phạm nghiêm trọng luật tố tụng hình sự), luật sư Quyết biết và nhiều lần dự lấy cung, chứng kiến – đối với Hải, thì luật sư Đạt do gia đình mới lại không hề được thông báo, mời dự lấy cung. Thậm chí luật sư Đạt còn bị cấm, không được tiếp xúc với bị cáo tại phiên Tòa sơ thẩm (!?).
Tại phiên tòa sơ thẩm ở Long An, khi Hải trình bày lời khai, luật sư Đạt trình bày quan điểm bào chữa thì loa âm thanh bị cắt, không cho người dự khán nghe. Quá trình xét xử nạt nộ, áp đặt, thiếu khách quan. (Về việc này, xin đính kèm bài báo của một người dự khán phiên tòa, được đăng trên báo Pháp luật TP.HCM (điện tử)).
6/ Tự ý chỉnh sửa lời khai, biên bản :
Theo qui định tại khoản 2 điều 132 BLTTHS, “Trong trường hợp có bổ sung và sữa chữa Biên bản thì bị can và điều tra viên cùng ký xác nhận”. “Nghiêm cấm ĐTV tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can”. (khoản 1 điều 132).
Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án cho thấy rất nhiều nội dung, câu chữ trong Biên bản ghi lời khai hoặc hỏi cung bị can, nhân chứng đã bị xóa bỏ, sữa chữa mà không hề có chữ ký xác nhận của bị can và ĐTV. Chúng tôi chỉ xin nêu 2 trường hợp cụ thể như sau:
- Tại “Biên Bản hỏi cung bị can” ngày 11-6-2008 (BL 92), lời khai của Hải về số bịch trái cây trên bàn salon bị sửa từ số “1” thành số “2”. Việc sửa này phải chăng là nhằm mục đích phù hợp với số bịch trái cây được ghi nhận theo Biên bản khám nghiệm hiện trường?
- Tại “Bản ghi lời khai” (BL 197, 198) của nhân chứng Lê Thị Thu Hiếu đã bị sửa chữa về kích thước con dao. Cụ thể đã sửa chiều dài con dao từ 35cm thành 30cm, phần lưỡi từ 25cm chuyển thành 20cm. Điều đáng nói là “Biên bản ghi lời khai” này được thực hiện vào ngày 19-1-2008, tức chỉ sau 5 ngày phát hiện vụ án. Thời điểm này, Lời khai về 2 con dao với kích thước ban đầu đã bị sửa chữa lại cho phù hợp kích thước phần dài con dao, phần dài lưỡi của dao với các lời khai sau này về con dao được coi là gây án. Sửa chữa này hoàn toàn không có chữ ký xác nhận của bà Hiếu.
7. Thông tin trên báo chí và dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án:
Báo chí nêu nhiều tình tiết cho thấy hung thủ có thể là một người khác và đã được cơ quan điều tra lấy lời khai ngay từ khi mới phát hiện vụ án. Thế nhưng trong hồ sơ vụ án không hề có “dấu vết” gì về những điều này, vì sao ?
Vụ án bưu điện Cầu Voi là một vụ giết người hết sức dã man, nghiêm trọng, được dư luận đặc biệt quan tâm và được báo chí theo dõi, phán ánh rất nhiều. Theo qui định của pháp luật, nguồn tin từ báo chí cũng là một kênh quan trọng để cơ quan chức năng xem xét, điều tra.
Liên quan đến vụ án mạng này, trong những ngày đầu tiên ngay sau khi xảy ra, báo đã đăng như sau:
Báo Thanh Niên ngày 16-1-2008 bài “Liên quan đến vụ giết hại 2 nhân viên Bưu điện Cầu Voi: Triệu tập khẩn cấp 4 thanh niên”
“Gần đây người ta còn thấy nạn nhân (Hồng) có mối quan hệ thân thiết với một thanh niên khác, quê ở Tiền Giang. Hằng tuần, người thanh niên này thường ghé Bưu điện Cầu Voi chơi rất lâu nên xung quanh rất nhiều người biết mặt. Và ngay trong đêm xảy ra án mạng, có người xác nhận chính anh ta xuất hiện tại Bưu điện Cầu Voi, nhưng đi về lúc nào, bằng phương tiện gì thì không ai biết”
Ngay trong chiều 14.1, các trinh sát hình sự Công an tỉnh Long An đã triệu tập khẩn cấp một nghi can tên là Nguyễn Văn Nghị, 28 tuổi (cư trú huyện Cai Lậy) tới CQĐT để làm rõ mối quan hệ với nạn nhân Ánh Hồng, đặc biệt là những dấu hiệu bất thường trong đêm xảy ra án mạng. Theo các trinh sát thì nghi vấn lớn nhất là sau khi xuất hiện tại Bưu điện Cầu Voi vào đêm 13.1, Nghị đã đi đâu không rõ rồi đến chiều hôm sau mới trở về nhà. Và trong 2 ngày 14 và 15.1, CQĐT cũng triệu tập thêm 3 thợ bạc của tiệm vàng K.L. tại khu vực Cầu Voi, để lấy lời khai. Trong số đó có một người tên Chà, một người tên Nguyễn Tuấn Anh, 37 tuổi và một người trên Trần Văn Sol, được biết là người yêu cũ của nạn nhân Ánh Hồng.
Anh Lâm Sáu, đội trưởng dân phòng, cho biết, nhiều đêm trực nhìn thấy có đông thanh niên ra vào trụ sở bưu điện chơi quá thoải mái, có lần anh đã sang nhắc nhở nhưng các cô vẫn phớt lờ.
Bài “Vụ sát hại 2 nhân viên Bưu điện Cầu Voi: Xuất hiện nhiều tình tiết mới” ngày 17-1-2008
Theo nguồn tin từ cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Nghị, là bạn trai của Nguyễn Thị Ánh Hồng, đã được đưa về cơ quan điều tra để làm rõ mối quan hệ giữa Nghị với nạn nhân Ánh Hồng và tường trình về việc Nghị đã đi đâu ngay trong đêm xảy ra vụ án mạng
Theo lời khai ban đầu của Nghị, thì vào khoảng hơn 20 giờ đêm 13.1, anh ta có "nhìn thấy một thanh niên khác ghé vào Bưu điện Cầu Voi và người này cũng chính là bạn trai của Hồng (?!)". Nghị nói: "Chỉ nghe nói người thanh niên kia tên Trung, là kỹ sư đang làm việc cho một công trình đi ngang qua địa bàn tỉnh Long An. Còn quê quán, địa chỉ cụ thể thì không nắm được". Thông tin này cũng được một nhân chứng cung cấp tại cơ quan điều tra. Theo nhân chứng này, người kỹ sư tên Trung cũng quen với nạn nhân Ánh Hồng, ngoài ra, còn có một tài xế của cơ quan cấp tỉnh thỉnh thoảng cũng hay ghé ăn cơm trưa tại bưu cục.
Cho đến trưa hôm qua 16.1, việc lấy lời khai nhóm thanh niên làm nghề thợ bạc đã cơ bản hoàn tất. Những người này đã cung cấp thông tin mà họ biết được trong các mối quan hệ của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng. Một nhân chứng khác ở thị xã Tân An cũng đã đến cơ quan công an cung cấp thông tin: Vào khoảng hơn 20 giờ đêm xảy ra án mạng, anh có vào Bưu điện Cầu Voi để mua thẻ cào điện thoại di động. Lúc đầu anh thấy tại phòng giao dịch chỉ có một nữ nhân viên; nhưng khi cô này bước ra đưa thẻ cào cho anh thì anh nhìn thấy ở phía trong còn có một thanh niên mặc áo khoác, quần jeans ngồi quay mặt ra ngoài. Nhân chứng cam đoan, nếu gặp lại anh sẽ nhận dạng được người thanh niên này.
Báo Người Lao Động ngày 17-1-2008, bài “Nghi can thứ 5 là một kỹ sư xây dựng?”
“Liên quan đến vụ hai nạn nhân bị giết tại Bưu điện Cầu Voi – Long An, ngày 16-1, theo lời khai ban đầu của 4 nghi can, trong đêm xảy ra vụ án còn có một nghi can thứ 5, cao to, có nước da sáng, tóc xoăn, mặc quần jeans và áo khoác rộng.
Người này cũng là bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng. Nghi can Nguyễn Văn Nghị khai khi vào bưu điện đã thấy “tình địch” (biết mặt nhưng không rõ tên) đã ngồi bên Hồng từ lâu. Nghị còn khai sau khi chạm trán “tình địch”, anh ta bỏ ra ngoài và không quay trở lại Bưu điện Cầu Voi cho đến sáng hôm sau.
Với những đặc điểm mà Nghị đã miêu tả, nghi can Nguyễn Văn Sol khai đó là Trung, một kỹ sư xây dựng, quê ở tỉnh Bình Dương, đang thi công một công trình ở tỉnh Long An. Sol cũng đã nhiều lần gặp người này và được Hồng giới thiệu là bạn mới.
Được biết, cơ quan điều tra đã tiến hành cho nhân chứng nhận diện các nghi can, trong đó có Nguyễn Văn Nghị”.
Qua những thông tin như trên có thể thấy có rất nhiều người, trong đó đặc biệt là hai ông Nguyễn Văn Nghị và Nguyễn Mi Sol có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với nạn nhân Hồng và đã có mặt tại bưu điện Cầu Voi ngay trong đêm xảy ra vụ án, đã được cơ quan điều tra triệu tập, lấy lời khai. Thế nhưng thật vô cùng bất thường là:
- Trong hồ sơ vụ án không hề có bất cứ tài liệu nào ( như Biên bản ghi lời khai) của hai ông Nghị và Sol về mối quan hệ với nạn nhân Hồng, tối hôm đó họ đã đi đâu, làm gì ? Tại sao ông Sol tối đó không ghé bưu điện trong khi đã có lời hẹn với Hồng? Nếu họ có bằng chứng ngoại phạm, thì bằng chứng ấy đâu?
- Hoặc nếu có lời khai của hai người trên, thì những Biên bản lời khai này đã vì sao không có trong hồ sơ vụ án? Ai đã chỉ đạo việc này? căn cứ vào qui định nào trong Bộ luật tố tụng hình sự?
- Chưa kể là theo báo Thanh Niên, thì cả hai ông Nghị và Sol đều khai rằng biết rõ mặt “người thanh niên” ở bưu điện tối hôm vụ án xảy ra. Vậy sao không cho hai người này nhận dạng Hồ Duy Hải ?
- Thông tin về việc “Một nhân chứng khác ở thị xã Tân An cũng đã đến cơ quan công an cung cấp thông tin: Vào khoảng hơn 20 giờ đêm xảy ra án mạng, anh có vào Bưu điện Cầu Voi để mua thẻ cào điện thoại di động. Lúc đầu anh thấy tại phòng giao dịch chỉ có một nữ nhân viên; nhưng khi cô này bước ra đưa thẻ cào cho anh thì anh nhìn thấy ở phía trong còn có một thanh niên mặc áo khoác, quần jeans ngồi quay mặt ra ngoài. Nhân chứng cam đoan, nếu gặp lại anh sẽ nhận dạng được người thanh niên này” – là ai? Tại sao không thấy thể hiện trong hồ sơ ?
Từ những tình tiết nêu trên, chúng tôi cho rằng Cơ quan điều tra thậm chí đã làm sai lệch hồ sơ vụ án. Cụ thể là có nhiều tài liệu, lời khai, tình tiết theo hướng có lợi cho Hồ Duy Hải đã bị rút khỏi hồ sơ. Ngược lại, đó cũng có chính là những tình tiết liên quan đến nhiều người khác, liên quan đến vụ án mạng đã bị bỏ qua.
Theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự, hồ sơ vụ án nhất thiết phải đầy đủ, chính xác, khách quan, bảo đảm đúng trình tự, thủ tục. Không có điều luật nào nói rằng Cơ quan điều tra có quyền rút ra khỏi hồ sơ hay hủy bỏ những kết quả điều tra ban đầu – dù đó không phải là lời khai nhận tội.
8. Động cơ giết người của Hải quá đơn giản và không phù hợp với tâm lý tội phạm:
Theo nguyên tắc của khoa học hình sự, để cấu thành một hành vi tội phạm không thể không nói tới điều quan trọng nhất : đó là mặt chủ quan (ý thức, động cơ) của kẻ phạm tội. Nguyên nhân nào, động cơ nào, điều gì đã khiến Hải phải ra tay giết một lúc hai cô gái trẻ một cách vô cùng tàn bạo và dã man đến vậy?
Theo Cáo trạng, lý do duy nhất là do Hồng không đồng ý cho Hải được giao cấu, đã có hành vi dùng chân đạp vào Hải, khi Hải đang đè nạn nhân xuống đòi giao cấu.
Nhưng liệu điều đó có hợp lý không, khi mà:
- Thời gian Vân đi mua trái cây rất mau. Với quãng đường từ bưu cục đến nơi bán trái cây chỉ khoảng 100m, thời gian mua trái cây chắc chắn sẽ không lâu, chỉ khoảng trên dưới 10 phút. Với thời gian rất ít ỏi như vậy, lại trong bối cảnh đèn đang sáng, cổng ngoài và cửa ngoài đều mở cả hai đang mặc quần áo đầy đủ - liệu Hải có thể nghĩ đến chuyện sẽ giao cấu và giao cấu được với nạn nhân hay không ? Nếu hai người thực sự có quan hệ tình cảm thì hoàn toàn có thể có những cơ hội và điều kiện khác.
- Theo những bản khai đầu tiên thì Hải còn khai “đã quan hệ” với Hồng. Điều này phải hiểu thế nào?
- Theo Cáo Trạng thì Hải dẫn Hồng vào trong buồng, cùng lên giường và Hồng đã nằm xuống. Để thực hiện được những việc đó, chắc chắn không thể là trong vài ba phút. Vì trước đó cả hai đều nói chuyện bình thường, ngay bên cạnh là Vân. Xét về tâm lý phụ nữ, phải có sự đồng tình của Hồng. Và từ lúc nói chuyện cho đến khi đồng tình chắc chắn phải trải qua sự chuyển biến về tâm sinh lý – ít nhất là 5 phút.
- Tiếp đó, qua những dấu vết thương tích và máu me khắp người nạn nhân, cũng như dấu vết đổ vỡ trong khu vực cầu thang, cho thấy Hồng đã có sự kháng cự quyết liệt và hung thủ đã phải tốn nhiều mới có thể gây ra hàng chục những vết thương cho Hồng. Nếu không có sự chuẩn bị và quyết tâm ngay từ đầu, liệu Hải có thể làm được những việc đó hay không?
- Liệu có hợp lý không khi chỉ vì bị từ chối giao cấu trong bối cảnh như vậy, Hải đã có những hành động mang tính chất dã man đến mức điên cuồng như vậy? Hải có cần thiết phải thực hiện hàng loạt động tác kéo dài, liên tục và quyết tâm giết chết Hồng được hay không?
- Cũng cần nói thêm là việc Hải bị bắt ban đầu hoàn toàn không liên quan gì đến việc giết người. Thực chất là Hải đã đến cơ quan công an trình diện về hành vi đánh bạc vào tối ngày 20-3-2008. Theo qui định, cơ quan công an phải lấy lời khai ngay từ khi Hải trình diện và lập thành Biên bản. Biên bản này tại sao không có ?
Theo chúng tôi, hành động giết người trong vụ án này phải là hành động của một người có sự chuẩn bị từ trước, có quyết tâm lớn, có sự căm thù/ghen tuông cực độ, bị đè nén và kích động. Không thể đơn giản chỉ là việc bị từ chối giao cấu.
Kính thưa Quí cơ quan,
Trong khuôn khổ một lá đơn, dù chỉ qua những gì mà chúng tôi có được một cách không đầy đủ, chúng tôi không thể và cũng không cần thiết phải liệt kê hết được những điểm phi lý, mâu thuẫn và vi phạm thủ tục tố tụng của Cơ quan điều tra và VKSND tỉnh Long An.
Đây cũng không phải là một phiên Tòa để chúng tôi có cơ hội tranh luận. Tại phiên tòa sơ thẩm, luật sư Nguyễn Văn Đạt đã trình bày 41 điểm bất hợp lý trong hồ sơ vụ án. Nhưng chỉ được ghi nhận chung chung có vài dòng và bác bỏ trong các bản án mà không nêu đầy đủ ý kiến, quan điểm của luật sư là thế nào, vì sao bị bác bỏ.
Việc bị cáo Hải một mực kêu oan tại phiên Tòa cũng không thể hiện trong bản án.
Qua những ý kiến trình bày ở trên, gia đình chúng tôi cho rằng các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Long An đã bất chấp sự thật khách quan, suy đoán chủ quan, thiếu căn cứ và đầy ác ý với con chúng tôi là Hồ Duy Hải. Bỏ qua hàng loạt những dấu hiệu phi lý, mâu thuẫn ở mức độ rất nghiêm trọng, đến mức khó hình dung – qua đó kết luận Hải đã có hành vi giết người. Qua đó, cũng thể hiện dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án, có khả năng kết án oan, bỏ lọt tội phạm.
Theo qui định tại Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự, “lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án”. Ở đây, gần như toàn bộ lời khai nhận tội của Hải đều không phù hợp với hiện trường, kết quả giám định và lời khai của hầu hết các nhân chứng. Vậy liệu đã có đủ cơ sở để kết luận Hải là hung thủ giết người hay chưa?
Để kết thúc lá đơn này, ngoài việc khiếu nại và lời kêu oan cho Hồ Duy Hải, gia đình chúng tôi xin được đặt ra vài câu hỏi quan trọng nhất – mà theo chúng tôi có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xét xử - gửi tới Cơ quan điều tra Công an và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An, kính mong được xem xét, trả lời:
1. Nếu thực sự Hồ Duy Hải là hung thủ giết người, thì tại sao tất cả những dấu vân tay thu giữ tại hiện trường lại không trùng khớp với dấu vân tay của Hải?
2. Tại sao không tiến hành giám định, so sánh dấu vân tay của Nguyễn Văn Nghị và Nguyễn Văn Sol so với các mẫu vân tay thu tại hiện trường. Bằng chứng nào chứng minh rằng hai người này ngoại phạm?
3. Tại sao không cho Nghị và Sol nhận dạng Hải – trong khi cả hai đều có lời khai là có “quen biết” với người thanh niên có mặt tại bưu điện vào tối hôm xảy ra án mạng ?
4. Tại sao trên mặt ghế thu được tại hiện trường có dấu dép ? Theo Cáo Trạng Hải không mang dép khi gây án. Vậy dấu dép này là của ai ?
5. Tại sao Hải dùng cái thớt đánh vào mặt Hồng gây ra nhiều vết thương lớn, chảy máu – thì cái thớt lại không có vết máu và không được thu giữ ?
6. Tại sao hầu hết các lời khai của các nhân chứng đều không phù hợp với lời khai của Hải, thậm chí mâu thuẫn - mà trong Cáo Trạng luôn dùng từ “hoàn toàn phù hợp” ?
Kính mong Quí cơ quan, trong phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm của mình, xem xét và kháng nghị bản án nói trên theo thủ tục giám đốc thẩm, hầu làm rõ bản chất sự việc, tránh hàm oan cho con chúng tôi. Vì một mạng người chết oan thì sẽ không bao giờ có thể sửa chữa được những sai lầm của người kết tội.
Xin chân thành cám ơn.
                                                          Đồng ký đơn (đã ký)


Đính kèm:
- Công văn của Văn phòng Chủ tịch nước.
- Bản Cáo trạng.
- Bản án sơ thẩm & phúc thẩm.
- Bài báo của một người tham dự phiên tòa sơ thẩm
.
 

No comments: